Nhìn Phật đản qua con mắt thiền quán
Khi
chúng ta nghĩ về sự ra đời của một con người, một bậc Thánh, hay của một đức Phật,
thì chúng ta xem nó là sự hình thành, sự bắt đầu, sự chuyển tiếp, sự tiếp nối …
của một đời sống mới. Thông thường, cái ngày đầu tiên mà con người phàm phu, vị
Thánh, hoặc vị Phật sinh ra đời thì gọi chung là ngày sinh, ngày chào đời, hay
ngày sinh nhật; sinh nhật của một con người thì gọi là phàm sinh, sinh nhật của
một vị Thánh gọi là Thánh Đản, hoặc
sinh nhật của một đức Phật gọi là Phật Đản.
Vì nghiệp lực tái sinh, một vị phàm
phu sinh ra đời; vì nguyện lực cứu độ
chúng sinh, một vị Thánh hay một vị Phật thị hiện ra đời. Đạo Phật, đạo tỉnh
thức, từ bi, trí huệ, bình đẳng, và hòa bình, có nguồn gốc từ Phật đản sinh và Phật giác ngộ.
Looking at the Buddha’s Birthday through the Contemplative
Eyes
When we think about the birth of a person, that of a Saint, or the
birth of a Buddha, we can see it as the formation, beginning, continuity,
transition, continuation, etc., of one’s new life. Normally, the first day when
a human being, a Saint, or a Buddha is born is generally called the day of
birth, date of birth, or birthday; birthday of the person called human birthday, that of the Saint
called Saint’s Birthday, or the
birthday of the Buddha called Buddha’s
Birthday. Out of the power of
rebirth Karma, a being was born in the world; born out of the powerful vow of saving and helping human
beings, the noble Saint or the Buddha manifests to be born in the world.
Buddhism, which is the path of awakening, loving-kindness, compassion, wisdom,
equality, and peace, has its source in the
Buddha’s Birthday and his
enlightenment.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, một con người lịch sử bằng xương bằng thịt, sinh ra đời cách đây gần ba nghìn năm dưới cây Vô Ưu tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), một phần của nước Nê-pan (Nepal) ngày nay. Năm 249 trước thường lịch, sự kiện này[1] được vua A Dục (Ashoka) khắc ghi, đánh dấu kỷ niệm, và ghi rõ trong Kinh A Hàm như sau: “Một chúng sinh duy nhất, một con người phi thường, xuất hiện trên thế gian này, vì an lạc cho số đông, vì hạnh phúc cho số đông, vì an lạc và hạnh phúc cho chư thiên và loài người, chúng sinh đó chính là con người lịch sử – đức Phật Thích Ca Mâu Ni.”[2]
Sakyamuni Buddha, a historical and actual Person
of the flesh, was born in this world nearly three thousand years ago under a
sorrowless (Ashoka) tree in the
Lumbini garden, a part of Nepal today. In 249 BCE, this event,[3] which
was engraved on a commemorative marker by King Asoka, was clearly written in
the Agama Sutra as follows: “A unique being, an extraordinary person,
appears in the world, out of peacefulness for the many, out of happiness for
the many, out of peacefulness and well-being for gods and human beings, the
being is mainly the historical and
actual person – the Sakyamuni Buddha.”[4]
Trong
bài viết này, có 9 cái nhìn khác nhau về Phật đản sẽ được thảo luận dưới đây
như sau:
In this
writing, nine different visions of the Buddha’s Birthday will be discussed as
follows:
1.
Nhìn Phật đản qua khía cạnh con
người lịch sử
2.
Nhìn Phật đản qua khía cạnh ẩn dụ,
huyền thoại, và nhấn mạnh
3.
Nhìn Phật đản qua khía cạnh biểu
tượng hoa sen
4. Nhìn Phật
đản qua khía cạnh con người tối thắng
5. Nhìn Phật
đản qua khía cạnh con người bình thường
6.
Nhìn Phật đản qua khía cạnh con người kham nhẫn, trí tuệ, hướng thượng,
hướng
thiện, giác ngộ, an vui, và giải thoát
7.
Nhìn Phật đản qua khía cạnh tưới tẩm, nuôi dưỡng, khơi dậy, và đánh thức
Phật tánh trong tất cả chúng sanh.
8.
Nhìn Phật đản qua khía cạnh bình đẳng
9.
Nhìn Phật đản qua khía cạnh hòa bình
1.
Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of the
historical person
2. Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of metaphor, legend,
emphases,
etc.
3. Looking at the Buddha’s Birthday via the symbols of the lotus flowers
4. Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of the supreme person
5. Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of the normal person
6. Looking
at the Buddha’s Birthday via aspects of endurance, wisdom, leading to upper, to
good, enlightenment, peacefulness, and liberation
7. Looking
at the Buddha’s birthday via aspects of watering, nourishing, arousing, and
awakening Buddha nature in all living beings
8. Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of equality
9. Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of peace
Tất-đạt-đa Cồ-đàm (Siddhārtha Gautama), con người có thật trong lịch sử, đã từng sống trên
trái đất của chúng ta cách đây gần 3 nghìn năm. Khi Ngài sinh ra được 7 ngày,
thì mẹ Ngài, tức thánh Mẫu Ma Da (Māyādevī) qua đời. Người mẹ kế của
thái tử là Bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahāpajāpatī Gotamī) chăm lo thái
tử rất tận tình và chu đáo. Thân phụ của thái tử tên là vua Tịnh Phạn (Suddhodana). Khi lớn lên, thái tử
kết hôn với công chúa Da Du Đà La (Yasodharā), và có một người con
trai duy nhất tên là La Hầu La (Rāhula).
1.
Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of the
historical person
Siddhārtha Gautama, an actual historical personage, lived on
our earth nearly three thousand years ago. When he was born on seven days, his
mother, namely the holy Mother Maya Māyādevī passed away.
The prince’s stepmother was Mrs. Mahāpajāpatī
Gotamī, who took care of him very wholeheartedly and thoughtfully. The prince’s
father was named King Suddhodana. When the Prince was grown,
he married princess Yasodharā, and had only one son named Rāhula.
Mặc dầu sống trong cảnh nhung lụa, giàu sang, và sung sướng, nhưng thái tử cảm thấy bị ràng buộc, không tự do, và thoái mái, cùng với người hậu cận của mình tên là Sa Nặc, thực hiện một chuyến đi ra khỏi 4 cửa thành để thăm các cảnh thật bên ngoài. Ra khỏi cửa thành cung điện, đi về hướng Đông, thái tử và Sa Nặc gặp người già; đi về hướng Tây, hai người gặp người bệnh; đi về hướng Nam, gặp người chết; và đi về hướng Bắc, gặp vị Khất sĩ.
Although living in the lap of luxury, wealth, and happiness, the prince felt confirmed, unfree, uncomfortable, and finally, along with his
companion named Channa, he made a
trip out of the four gates of the royal palace to visit the real world outside.
Getting out of the gates of the palace, going to the East, the prince and Channa
met an old person; going to the West, they met a sick person; going to the South, they saw a dead person; and going to the North, they met a mendicant.
Trong
bốn cảnh thật mà thái tử chứng kiến, cảnh thật thứ tư là hình ảnh thái tử thích
nhất; hình ảnh của vị khất sĩ thong dong, khoang thai, ung dung, nhẹ nhàng, và
thư thới. Hình ảnh này khắc sâu vào trong tâm trí của thái tử, đưa thái tử tới
một cuộc đời thiền quán sau này, giúp thái tử trở thành vị tu sĩ không nhà, sống
không có gia đình, và không bị ràng buộc bởi các ràng buộc gia đình và con
cháu.
Of the four real scenes that the prince witnessed, the fourth was
the image he liked best; the mendicant’s image was untroubled, leisurely,
carefree, light-hearted, and relaxed. This image, which became engraved deeply
in the prince’s inner mind, led him to taking up a life of contemplative
meditation later on, help him to become a homeless monastic, living without a
family and being not bound by the ties of his royal family and descendant.
Xuất gia lúc 29 tuổi, nhà tu Tất Đạt Đa (Siddhārtha), học
đạo với hai vị đạo sĩ: Alara-Kalama và Uddaka-Ramaputta, trải qua 6 năm tu
khổ hạnh với 5 anh em Tôn giả Kiều Trần Như (Kondañña),
và thấy lối tu khổ hạnh và sự chứng đạo của họ bị thiên kiến, sai lệch, và
không hoàn hảo. Ngài quyết định rời họ và chọn cho mình con đường Trung Đạo (majjhimāpaṭipadā) bằng cách thực tập lối không khổ hạnh ép xác và
không tham đắm dục lạc.
Leaving home for a religious life at the
age of 29, the hermit
Siddhārtha, learned
religion from two ascetics: Alara-Kalama and Uddaka-Ramaputta, spent six years
practicing asceticism with the five brothers of the honored Elder Kondañña,
and saw that their
ascetic practices and religious attainments were prejudiced, aberrant, and
imperfect. He decided to leave them and to choose himself the Middle Way (Majjhimāpaṭipadā) by practicing ways of non-self-indulgence and
non-self-mortification.
Sau khi dùng bát cháo sữa của nàng Su Dà Ta (Sujata), Bồ tát Tất Đạt Đa nhận bó cỏ Kiết
tường (Kusa) của người nông phu, đi
thẳng tới Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya),
và ngồi thiền định 49 ngày đêm dưới cội Bồ đề. Cuối cùng, Bồ tát giác ngộ và
thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni)
lúc 35 tuổi.
After having eaten a milky porridge bowl given him by a young lady named Sujata, Bodhisattva Siddhārtha received a bunch of grass (Kusa) from a farmer, went straight to Bodhgaya, and sat in meditation under a Bodhi tree throughout 49 days and nights. Finally, the Bodhisattva achieved Enlightenment and became the Buddha called Sakyamuni at the age of 35.
Tính
theo Phật đản hay sự ra đời của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) vào khoảng năm 624 trước công nguyên, lấy năm 624 cộng
với năm nay, tức năm 2013, ta có Phật đản lần thứ 2637. Siddhartha có nghĩa là con Người toại nguyện, hoàn hảo, và tốt đẹp
có đầy đủ phước đức và trí tuệ. Tính theo Phật lịch hay sự nhập niết bàn của đức
Phật năm 544 trước công nguyên, lấy năm 544 cộng với năm nay – 2013, ta có năm
Phật lịch 2557. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Người sáng lập ra đạo Phật – đạo tỉnh
thức, hòa bình, bình đẳng, từ bi, và đạo trí tuệ.
Counting according to the Buddha’s Birthday or the birth of the
Prince Siddhartha in about 624 BCE,
taking the year 264 plus this year, namely in the year 2013, we have the 2637th
Buddha’s Birthday. Siddhartha means a
fully contented and perfect person has enough merit and wisdom. Counting
according to the Buddhist calendar or to the Buddha’s passing away in the year
544 BCE, taking the year 544 plus this year, namely the year 2013, we have the
Buddhist calendar year 2557. Sakyamuni Buddha is the founder of Buddhism: the path of awakening, that of peace,
equality, loving-kindness, and that of wisdom.
Thích
Ca (Sakya) là cái họ; Mâu Ni (Muni) là vị xuất Sĩ an lạc và tự do. Vậy
Thích Ca Mâu Ni, người con dòng họ Thích Ca (Sakya) tại thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu),
có nhiều an lạc và hạnh phúc, vững chãi và thảnh thơi, thương yêu và hiểu biết,
xuất gia tu tập, thành đạo, hướng tới tự tại và giải thoát, và đem lại hòa
bình, an lạc, và hạnh phúc đích thực cho pháp giới chúng sinh trên khắp hành
tinh này.
Sakya is his clan; Muni is a
peaceful and free Monastic. Thus, Sakyamuni,
the Sakya clan son in Kapilavastu capital,
had much peacefulness and happiness, steadiness and leisureliness, love and
understanding, and left his royal palace for a monastic life to cultivate, to
attain enlightenment, to lead to light-heartedness and deliverance, and to
bring authentic peace, joy and happiness to living things and living beings all
over the planet.
Hoằng
dương chánh pháp trong suốt 45 năm, nhập diệt lúc tuổi 80, đức Phật giáo hóa rất
nhiều hạng người khác nhau như vua, quan, quần thần, thương gia, tôi tớ, thậm
chí người hốt phân, kẻ cướp, và kỷ nữ. Những ai có đủ duyên học Phật, nghe
pháp, thực tập giáo pháp của đức Phật, và sống đời sống chánh niệm và tỉnh
giác, và sau đó, an lạc và hạnh phúc có khả năng thấm nhuần và làm mát dịu thân
tâm.
Spreading the Dharma for 45 years, passing away at the age of 80,
the Buddha taught very many different kinds of people such as kings, mandarins,
royal officials, merchants, servants, even dung-collectors, bandits, and
courtesans. Those who have enough their good opportunities are able to learn
Buddhism, listen to the Dharma, practice the Buddha’s teachings, and live their
lives of mindfulness and awareness, and then peacefulness and happiness have
the ability to instill, to calm, and to cool their bodies and minds.
Theo
cái nhìn tương quan và tương duyên, chúng ta thấy con người lịch sử có thật,
con người thành Phật, nói pháp, và nhập niết bàn, tuy hai là một, và tuy một là
hai, tương tự như nước với sóng, và sóng với nước; cả hai hạng người này nương
vào nhau không thể tách rời nhau được.
According to correlative and interdependent vision, we see an
actual historic person, that person becoming the Buddha, preaching the Dharma,
and entering Nirvāṇa, - these two are one, and one is two,
similar to water and its wave, and wave and its water; both of these persons
are each other and cannot be separated.
Sống suốt cuộc đời hòa hợp vào môi trường thiên nhiên, thái tử Tất Đạt Đa sơ sinh, tức đức Phật sơ sinh, sinh ra dưới cây Vô Ưu ở vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạo dưới cội cây Bồ Đề (Bodhi tree) tại Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya), nói bài Pháp đầu tiên – Tứ Diệu Đế cho 5 anh em ông Kiều Trần Như ở vườn Nai – Sarnath, nhập diệt dưới 2 cây song thọ tại rừng Sa La (Sala) tại thành Câu Thi La (Kusinagar).
Living his whole life in harmony with the natural environment, a
newborn Siddhārtha
prince,
namely a newborn baby Buddha, was born under a sorrowless tree in the Lumbini
garden, obtained enlightenment under the Bodhi tree at Bodhgaya,
preached the first Dharma Sermon – the Four Noble Truths to the five brothers
of the honored Elder Añña
Kondañña
in the Deer park – Sarnath, and passed away under the twin trees in the
Sala forest in Kusinagar district.
Đây
là 4 Thánh địa quan trọng nhất của Phật giáo nhằm tiêu biểu cho đức Phật và cuộc
đời của Người luôn luôn sống để bảo vệ
môi trường thiên nhiên rất chu đáo, an lạc, tự tại, và thảnh thơi.
These are the four most
important holy places of Buddhism that are to represent the Buddha and the life
of His, always living to protect the natural
environment thoughtfully, peacefully, freely, and leisurely.
“Như ong đi tìm hoa,
nương hoa để hút mật,
chỉ hút mật rồi bay,
chúng không làm tổn thương hương sắc
của hoa.”[5]
“As bees that go to
find flowers,
rely on flowers to suck
nectar,
only suck nectar and
then fly away,
but they do not injure
the perfume and beauty of flowers.”[6]
Hoa
dụ cho môi trường thiên nhiên; mật là biểu tượng cho Pháp học, pháp hành, pháp
hiểu, pháp lạc và pháp vị; con ong dụ cho đức Phật và các đệ tử của Ngài biết
cách nương vào môi trường thiên nhiên để sống, để vui, để tu tập, để làm đạo,
và nương vào Phật, Pháp, Tăng để xây dựng hạnh phúc, tình thương, và hòa bình
cho số đông.
Flowers are an example of the natural environment; nectar is a
symbol of Dharma learning, Dharma practice, Dharma understanding, Dharma joy,
and Dharma flavor; bees are symbols of the Buddha and His disciples, knowing
how to rely on the natural environment to live, to rejoice, to cultivate, to do
mindful activities, and to rely on the Buddha, the Dharma, and the Sangha in
order to build happiness, love, and peace for the many.
Nhìn
Phật đản tóm lượt xong qua khía cạnh Ngài như con người lịch sử,[7] kế đến chúng ta tiếp tục
tìm hiểu các tính đặc thù tiếp theo của Phật đản.
Having briefly looked at the Buddha’s Birthday via the aspects of
Him as an historical person,[8] we are
next going to continue to learn about the specific following features of the
Buddha’s Birthday.
2. Nhìn
Phật đản qua khía cạnh ẩn dụ, huyền thoại, nhấn mạnh…
Khi
nhìn sâu vào sự ra đời của đức Phật, chúng ta thấy rằng những tính đặc thù của
Phật giáo mang nhiều ý nghĩa rất quan trọng để chúng ta học hỏi. Bổn sanh truyện
(Jàtaka)[9] ghi rằng hoàng hậu Ma Da (Maya) và vua Tịnh Phạn (Suddhodana)
hơn 40 tuổi thì họ mới có người con trai đầu lòng.
2. Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of metaphor, legend,
emphases, etc.
When looking deeply at the Buddha’s Birthday, we see specific
characteristics of Buddhism have very many important meanings for us to learn.
The Jàtaka[10] story stated that queen Maya and king Suddhodana were over 40 years old when they had their first son.
Thông
thường, vợ chồng sống chung và ăn ở với nhau một năm hay nhiều năm, dù trai hay
gái, họ rất mong có một hay hai người con để nối dõi tông đường và nối dõi sự
nghiệp tổ tiên tâm linh và tổ tiên huyết thống. Khi có đứa con đầu lòng chào đời,
thì vợ chồng và gia đình hai bên nội ngoại của họ rất ư là sung sướng vì đứa
con là kết quả của tình yêu đôi lứa.
Normally, spouses live and
eat together about one year or many years, whether girl or boy, they expect to
have one or two children to maintain the continuity of a family temple and to
maintain the career of spiritual ancestors and blood ancestors. When their
first child is born, spouses and families of maternal and paternal sides are
very happy because the child is the result of the couples’ love.
Hoàng
hậu Ma Da và vua Tịnh Phạn (Suddhodana) mong muốn có con để tiếp nối sự nghiệp
hoàng cung của dòng họ Thích-ca (Sakya).
Sự mong muốn của họ đã được thành tựu, tức là hai người đã có đứa con đầu lòng.
Ba ngày sau khi thái tử được sinh ra, tiên A Tư Đà (Asita) được triệu vào cung và làm lễ đặt tên cho thái tử là Tất Đạt
Đa (Siddhartha); Tất Đạt Đa, có nghĩa
là con người toại nguyện có đầy đủ phước đức và trí tuệ có khả năng trở thành vị
xuất Sĩ an lạc, tỉnh thức và thảnh thơi, đem đạo vào đời và giúp đời thêm vui,
bớt khổ.
Queen Maya and king Suddhodana desired to have their child to connect the royal career of Sakyan
clan. Their desire was fulfilled,
that is to say, they had their first-born son. Three days after the prince was
born, the seer Asita was invited to
enter the palace, and he performed a ceremony of naming the prince Siddhartha; Siddhartha, means the the fully-contented
man who has sufficiency of merit, virtue, and wisdom has the ability to become a peaceful,
awakened, and relaxed monastic, to bring Buddhism into life, and to help add
joy, and reduce suffering to life.
Trong
thời gian mang thánh thai, vua và hoàng hậu, cùng các người hoàng tộc trong triều
đình, luôn làm các việc thiện, nói việc thiện, và suy nghĩ việc thiện để huân tập,
xông ướp, và tưới tẩm vào tâm thức trong trắng của thai nhi. Các việc thiện này
có khả năng thấm sâu vào tâm thức của thai nhi, giúp thai nhi có khả năng nuôi
dưỡng, phát triển, và tạo thành những chất liệu bình đẳng, hòa bình, từ bi, và
trí tuệ về sau. Những ý nghĩ và việc làm của họ mang nhiều ý nghĩa rất tích cực
và thiết thực đem lại nhiều an lạc và hạnh phúc cho tự thân, cho thai nhi, và
cho số đông. Đây là bài giáo dục thai
nhi đầu tiên vô cùng giá trị và quý báu cho nhân thế.[11]
During the time
of bearing the holy pregnancy, the king and the queen, along with royal people
in their royal court, always did good things, said good things, and thought of
good things to permeate, to penetrate, and to water them into the fetus’s
immaculate consciousness. These good things have the ability to penetrate
deeply into the fetus’s mind and consciousness, to help the fetus have the
capability to nurture, to develop, and to form the attributes of equality,
peace, loving-kindness, compassion, and wisdom later. Their thoughts and acts,
which contained many meanings very positively and practically, brought much
peacefulness and happiness to themselves, to the fetus, and to the many. This
is the first fetal education – extremely
valuable and precious for human life.[12]
Như
vậy, chúng ta thấy trong thời gian mang thai, cả vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và hoàng hậu Ma Da (Maya) cùng quần thần trong hoàng tộc đều
nỗ lực tu tập bằng cách làm những điều phước thiện, và đem lại nhiều điều lợi
ích cho tự thân và cho tha nhân. Thực hiện được như vậy, hoàng tộc trong triều
đình của họ không những đạt được hạnh phúc, mà thai nhi còn đạt được an vui.
Đây là những chất xúc tác mạnh mẽ, an lạc, và hạnh phúc tạo thành và nuôi dưỡng
hạt giống thánh thai nẩy mầm, đức Phật sơ sinh ra đời.[13] Kinh Pháp cú kệ số 194
ghi:
Thus, we see during the time of bearing the fetus, both the king Suddhodana and the queen Maya, along with mandarins in their royal household, attempted to
cultivate by doing meritorious and good things, and bringing many benefits to
themselves and to the many. Practicing like this, families not only achieve
happiness, but the fetus also obtains peaceful joy. This is the catalyst of
power, peacefulness, and happiness constituting and nurturing the seed of the holy fetus to sprout, an
infant Buddha was born.[14] Dhammapada, Verse No. 194 states:
“Hạnh phúc
thay đức Phật giáng sinh,
Hạnh phúc thay giáo pháp cao minh,
Hạnh phúc thay Tăng đoàn an lạc,
Hạnh phúc thay Tứ chúng đồng tu.”
“Happy
is the birth of the Buddha,
Happy is the noble Dhamma,
Happy is the harmonious Sangha,
Happy is the Four Assemblies of
cultivating together.”
Trong
một vài Kinh văn Phật giáo, để diễn tả sự ra đời kỳ diệu của một đức Phật, cụ
thể là đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người viết sử sau này thường thêm thắt những
khía cạnh huyền thoại, trang trọng, tôn kính, thiêng liêng,
và mầu nhiệm của Ngài. Những khía cạnh
này bao gồm nhiều ý nghĩa ẩn dụ dùng để diễn tả khi hoàng hậu Ma Da (Maya) mang thánh thai; người ta nói rằng
bà nằm mộng thấy Bồ tát Hộ Minh (Vessantara, Sumedha) từ trên cung trời Đâu Xuất (Tusita), cỡi
voi trắng sáu ngà, và đi vào hông bên phải của bà, từ đó bà mang
thai.[15]
In Buddhist Texts, to describe the marvelous birth of a Buddha,
namely Lord Sakyamuni Buddha,
historians later often embellished the aspects of his legend, solemnity, reverence, sacredness, and miracle. These
aspects, which contained the metaphorical meanings, were used to describe when
Queen Maya had her holy pregnancy; it
is said she had a good dream in which she saw the Bodhisattva Vesantara come from the Tusita heaven, riding a white elephant with six tusks, and entering
her righ hip, whereupon she became pregnant.[16]
Cung
trời Đâu Suất là nơi Bồ tát Hộ Minh (Vessantara)[17] xuất phát và giáng trần; Ở
điểm này, chúng ta thấy rằng Phật giáo cũng chấp nhận các khái niệm cõi trời và
chư thiên.[18]
The Tusita heaven is the
place from where Bodhisattva Vesantara[19]
starts and descends; At this point, we see that Buddhism also accepts the
concepts the realms of heaven and gods.[20]
Theo
quan điểm đặc thù của Phật giáo, trời cũng là một chúng sanh ở dạng phước báo.
Tùy theo nghiệp tạo tác thiện và bất thiện, chúng sanh có thể sanh về cõi trời, cõi người, A Tu La (Asura), địa ngục,
ngạ quỷ, và súc sanh.
According to the
specific viewpoints of Buddhism, God is also a being in the form of the blessed
rewards. Depending on their actions which creat good and no good, living beings
can be born in the realms of heaven,
those of human beings, Asuras, hells, hungry ghosts, and those of animals.
Ở
cõi trời, chúng sinh chỉ trải nghiệm qua sự sung sướng mà thôi. Điều đó thật là
khó cho họ để tu tập. vì họ chỉ biết việc hưởng thụ, nên họ không có động lực để
thoát khỏi khổ đau.
Ở
cõi người, chúng sinh có khổ có sướng. Đó là cơ hội tốt nhất cho họ tu tập, hướng
tới giác ngộ và giải thoát, giúp mình, và giúp người.
Ở
cõi A Tu La, chúng sanh rất sân giận và nóng nảy dễ gây chiến tranh.
Ở
cõi địa ngục, chúng sinh bị hành hình, tù tội, và bị tra tấn.
Ở
cõi ngạ quỷ, chúng sinh luôn bị run lạnh,
đói, khát, tham lam, và chấp thủ.
Ở
cõi súc sanh, chúng sanh ăn tươi và nuốt sống.
Trong
ba cõi địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh, chúng sanh luôn bị hành hạ và khổ sở,
chúng hiếm có hoặc không có cơ hội và thời gian để tu tập.
In the realm of heavens, beings experience only happiness. It is
very hard for them to cultivate. They only know enjoyment, so they have no
motivation to escape from suffering.
In the realm of human beings, beings have both suffering and
happiness. It is the best opportunity for beings to cultivate, to progress to
enlightenment and deliverance, to help oneself and help others.
In the realm of Asura,
beings are very angry and hot-tempered. It is easy for them to cause war.
In the realm of hells, beings are executed, imprisoned, and
tortured.
In the realm of hungry ghosts, beings are trembling, hungry,
thirsty, desiring, and grasping.
In the realm of animals, beings make mincemeat of one another.
In three realms of hells, hungry ghosts, and animals, beings are
always tortured, suffering, and miserable. They rarely have or have no time and
no opportunity to cultivate.
Thật
vậy, theo giáo lý thiết thực của Phật giáo, các chúng sanh trong sáu cõi đều do
thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ý nghiệp tạo tác ngay trong cuộc sống hiện tại. Tạo
nghiệp thiện, chúng sinh tái sinh
vào cõi trời hoặc cõi người; tạo nghiệp
bất thiện, chúng sinh tái sinh vào các cõi A Tu La, địa ngục, ngạ quỷ, và
súc sanh.
Indeed, according to practical teachings of Buddhism, living beings
in the six realms are created by their own bodily actions (Karma), verbal actions, and mental actions right in the present
life. Creating good actions, beings
are reborn in the realms of heaven or those of human beings; creating non good actions, beings are reborn in
the realms of Asuras, hells, hungry
ghosts, and animals.
Chúng
sinh ở cõi trời có phước báo hơn chúng sinh ở các cõi khác. Vì hạnh nguyện độ
sinh, từ cõi trời Đâu Suất (Tusita),
Bồ Tát Hộ Minh (Vessantara) thị hiện nơi
cõi Ta bà này bằng cách đầu thai làm con của vua Tịnh Phạn (Suddhodana)
và hoàng hậu Ma Da (Maya), tức thái tử Tất Đạt Đa.
Beings in heaven have more blessings than beings in other realms.
Out of his vow to help beings, from the realm of Tusita heaven, Bodhisattva Vesantara
was present in this earth by way of being reincarnated as the king Suddhodana’s and queen Maya’s son,
namely prince Siddhārtha.
Theo triết lý tương tức và duyên sinh của Phật giáo, tinh cha, noãn sào của mẹ, tử cung, sự ân ái và giao hợp của cha mẹ, thời gian thụ thai, mang thai, v.v… của người mẹ đều là những yếu tố rất quan trọng và cần thiết để hình thành thai nhi. Bên cạnh các yếu tố ấy, trong quá trình hình thành và phát triển, thai nhi còn phải phụ thuộc vào các yếu tố cần thiết khác nữa như ánh sáng, không khí, hơi ấm, sự chuyển động, chất bổ dưỡng, v. v., đặc biệt là phụ thuộc vào sự có mặt và sự liên kết lại với thức tái sinh (Patisandhi)[21] hay hương ấm (Gandhabha).[22]
According to philosophy of interdependence and co-arising of
Buddhism, the father’s sperm, the mother’s ova, her womb, the parents’
intimacy, the time of her conception, pregnancy, etc., are very important and
necessary factors to form a fetus. Besides those factors, in the process of
forming and developing, the fetus must still depend on other necessary elements
such as light, air, warmth, motion, nutrition, etc., especially on the presence
and the re-link with reincarnation consciousness (Patisandhi viññana)[23]
or Gandhabha.[24]
Trong nhiều đời quá khứ, hiện tại, và tương lai, tùy
theo nguyện lực và nghiệp lực của mỗi người, thức này kết nối, hòa nhập, vây mượn,
và gá vào năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành,
và thức) của cha và của mẹ để hình thành một thai nhi. Trong chu kỳ sinh, tử,
và tái sinh, khoảng chín tháng và mười ngày, thai nhi được hình thành, tiếp nối,
lớn lên, già, chết, và tiếp tục chuyển tiếp sang một đời khác, và cuối cùng được
sinh vào một đời sống mới.
In many lives of the past, the present,
and the future, depending on the powerful vow and powerful Karma (action) of
every human being, this consciousness connects, unites, integrates, borrows,
and rely on five aggregates (form,
feeling, perception, volitional formation, consciousness) of parents to
form a fetus. In the cycle of birth, death, and rebirth, about nine months and
ten days, the fetus will be created, linked, grown up, gotten old, passed away,
and continue transferring to an another life, finally being born into its new
life.
Trong trường hợp ra đời của Bồ-tát Tất-đạt-đa (Bodhisattva Siddhārtha),
với đời sống chuyển tiếp cuối cùng của Bồ tát Hộ Minh (Vessantara),[25]
vì nguyện lực giáo hóa và cứu độ chúng sinh, từ cung trời Đâu-suất (Tusita), Bồ tát Hộ Minh hiện thân làm đức
Phật hài nhi. Để thực tập và tưởng nhớ công hạnh giáo hóa chúng sinh của Ngài,
trong mùa lễ Phật đản hằng năm, chư vị xuất sĩ và cư sĩ thường xưng tán và lễ lạy
Ngài như sau:
In the case of the birth of Bodhisattva Siddhārtha, with finally
transitional life of Bodhisattva Vessantara,[26] out of the powerful vow of teaching and
helping living beings, coming from the Tusita
heaven, the latter embodied as the baby Buddha. To practice and to remember
his conduct and vow of teaching living beings, in the season of the annual Vesak
ceremony, celebrating the Buddha’s Birthday, monastics and lay people usually
praise, kowtow, and prostrate themselves in front of Him:
“Bồ tát Hộ
Minh, từ trên cung trời Đâu Suất, báo mộng hoàng hậu Ma Da, cỡi voi trắng sáu ngà, và đi vào hông bên phải của mẹ. Hoặc, cậu bé
sơ sinh Tất-đạt-đa, sinh ra ở dưới cây Vô Ưu, thị hiện ra đời để
đem lại an lạc và hạnh phúc cho số đông, được chín rồng phun nước,
Ngài đi bảy bước, trên bảy đóa hoa sen,
và dõng dạc nói rằng: Trên trời dưới
đất, chỉ có con Người giác ngộ và tỉnh
thức là tôn quý. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.”[27]
“Bodhisattva Vessantara [28], who comes from the realm of Tusita heaven, imparts a good
omen in a dream to queen Maya, rides a white
elephant with six tusks, and enters her
right hip. Or a newborn baby named Siddhartha, who was born under a Sorrowless Tree, is present in the world to bring peacefulness and happiness to the
many, is sprayed water by nine dragons, walks seven steps on seven lotuses, and bravely says: In heaven
and on earth, only an Awakened and Enlightened Person is noble. All living
beings have Buddha nature.”
Tất cả những từ ngữ đề cập ở trên,voi,màu trắng, sáu ngà, bên phải, cây, vô ưu, con số 9, rồng, nước, con số 7, bước, hoa sen, con người,đều là những biểu tượng ẩn dụ và nhấn mạnh. Hông bên phải là biểu tượng huyền thoại; huyền thoại ở đây có nghĩa là câu chuyện hàm chứa nhiều ý nghĩa trang trọng, tôn kính, thiêng liêng, vi diệu, và mầu nhiệm.
Tất cả những từ ngữ đề cập ở trên,voi,màu trắng, sáu ngà, bên phải, cây, vô ưu, con số 9, rồng, nước, con số 7, bước, hoa sen, con người,đều là những biểu tượng ẩn dụ và nhấn mạnh. Hông bên phải là biểu tượng huyền thoại; huyền thoại ở đây có nghĩa là câu chuyện hàm chứa nhiều ý nghĩa trang trọng, tôn kính, thiêng liêng, vi diệu, và mầu nhiệm.
All the above-mentioned words, such as elephant, white, six tusks, right hip, tree, sorrowlessness, figure 9,
dragon, water, the number 7, step, lotus, person (Atman), are the symbols
of metaphor and emphasis. The right hip is
the symbol of legend; the legend here means that the story involves many
solemn, respectful, sacred, marvelous, and wonderful meanings.
Voi
tượng trưng cho sức mạnh, vững chãi, thảnh thơi, thong dong, và tự tại; màu trắng chỉ cho sự tinh khiết, trong
sạch, không ô nhiễm; sáu ngà tượng
trưng cho sáu hạnh nguyện đích thực “Bố
thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí tuệ” của một vị Bồ
tát đi vào đời để cứu độ chúng sanh. Bên
phải là bên thuận theo chiều kim đồng hồ, đi từ hướng Đông sang hướng Nam,
hướng Tây, và hướng Bắc. Bên phải chỉ
cho hướng đi thuận duyên, hướng đi đem đạo vào đời để giúp đời thêm vui bớt khổ.
Bên phải có nghĩa là bên tốt, là lẽ
phải, là chân lý… Sinh ra hông bên phải của
hoàng hậu Ma Da mang ý nghĩa tượng trưng huyền thoại; thực ra, thái tử Tất-đạt-đa
sinh ra bình thường như bao nhiêu người khác trên thế gian này.[29]
Elephant represents
power, steadiness, calmness, carefeeness, and freedom; White symbolizes purity, cleanness, non-pollution; six tusks represent the six authentic
conduct vows (alms-giving, precepts
protection, endurance, diligence, meditative concentration, and wisdom) of
a Bodhisattva entering his or her life to save living beings. Right side is the clockwise oriented
side, going from the East to the South, the West, and to the North. The right side represents the direction of
favourable conditions, that of bringing the Buddha’s teachings to life in order
to help add happiness and relieve suffering to life. The right means the good, reason, the truth, etc. Being born on the
right side of Queen Maya’s hip brings
the meanings to the mythological symbol. In fact, the prince Siddhārtha was normally born as everyone else in the
world.[30]
Chúng
ta biết hông bên phải là có thật đối lại với hông bên trái mang ý nghĩa tượng trưng chỉ cho sự thuận duyên, hợp với chân lý,
và lẽ phải. Điểm này được nhấn mạnh và nhắc nhở chúng ta rằng là con người
tứ đại (đất – chất cứng, nước – chất lưu
chuyển, lửa – chất nóng, và gió – chất chuyển động) và năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, và thức) như thái
tử Tất-đạt-đa (Siddhārtha), mỗi chúng ta đều có khả năng tu tập, giác
ngộ, và giải thoát như Ngài nếu mỗi người cố gắng sống đời sống chánh niệm và tỉnh
giác, vững chãi và thảnh thơi trong đời sống hằng ngày. Ngoài con người ra,
không có một đấng thần linh nào có thể thay thế con người được.
We know the right side hip is true opposite to the left side hip bringing symbolic
meanings to show the favorable
conditions, suitable to truth and reason. This point is emphasized and
reminds us that as person of four elements (earth
– hard substance, water – circulating substance, fire – heat substance, and
wind – movement substance) and five aggregates (form, feeling, perception, mental formation, and consciousness)
like the prince Siddhārtha, each of us will have the ability to
cultivate, to obtain enlightenment, and to be freed like him if each person
tries to live her or his life of mindfulness and awareness, steadiness and
calmness in the daily life. No one or no god can replace the person in this
effort.
Vị
Bồ tát Hộ Minh (Vessantara)[31] cỡi voi trắng sáu ngà đi vào hông bên phải của hoàng
hậu Ma Da; hông bên phải mang ý nghĩa tượng
trưng, ẩn dụ, và nhấn mạnh rằng người giác ngộ và tỉnh
thức nào muốn đem đạo vào đời để giáo hóa chúng sanh, thì phải thực tập sáu hạnh
nguyện độ sanh: “Bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tấn, thiền định, và trí tuệ.” Khi sáu hạnh nguyện độ sanh được
thực hiện hoàn hảo và đầy đủ, vị Bồ tát có khả năng đem đạo vào đời để giúp đời
thêm vui và thêm phúc.
Bodhisattva Vessantara,[32] who rode the white elephant with six
tusks, entered the right side hip of
the Queen Maya; the right side hip brings the meanings of
symbol, metaphor, and emphasizes that an enlightened and awakened One that
wants to bring the Buddha Dharma to life in order to teach human beings has
practiced the six conduct vows to save living beings: “Alms-giving, precepts protection, endurance, diligence, meditative
concentration.” When the six conduct vows of saving living beings are
performed perfectly and sufficiently, the Bodhisattva has the ability to help
add joy and happiness to life.
Vị
Bồ tát ở đây cụ thể chỉ cho thái tử Tất-đạt-đa (Siddhārtha), sinh ra, lớn lên, xuất gia, tu hành, đắc
đạo, hoằng pháp, và độ sanh ngay tại đời này. Hòa nhập vào đời để giáo hóa
chúng sanh, nhưng Ngài không bị đời làm ô nhiễm, thân và tâm của Ngài luôn giữ
thanh thản, chánh niệm, vững chãi, trong sạch, và tinh khiết. Để noi gương, áp
dụng, và thực hành hạnh nguyện giáo hóa chúng sanh của đức Thế Tôn, thì mỗi chúng
ta phải là mỗi hành giả an lạc, mỗi chúng ta là mỗi vị Bồ tát đích thực, cùng
nhau đem đạo vào đời để giúp đời an vui và hạnh phúc.
The Bodhisattva here is personified and actualized in the prince Siddhārtha, who was born, grew up, left home for a religious
life, led his monastic life, obtained enlightenment, preached the Dharma, and
saved living beings right in this life. Integrating into the world to teach
human beings, but he is not polluted by the world, his body and mind always
uphold calmness, mindfulness, steadiness, cleanness, and purity. To follow the
World-Honored One’s example, to apply, and to practice His conduct vow of
teaching human beings, each of us is each peaceful practitioner, each of us is
an authentic Bodhisattva, bringing Buddhism to the world in order to help it be
peaceful and happy.
Nhìn
ý nghĩa phân tích, chúng ta biết Bồ tát tiếng
Phạn là Bodhisattva gồm có hai từ Bodhi và Sattva; Bodhi có nghĩa là
tỉnh thức, giác ngộ, và Sattva có
nghĩa là con người. Vậy Bồ tát hay Bodhisattva có nghĩa là con người tỉnh
thức và giác ngộ có khả năng khơi dạy và đánh thức Phật tánh của người khác tỏa
sáng, có khả năng khơi dạy và tưới tẩm hạt giống giác ngộ của người khác nẩy mầm,
và có khả năng hướng dẫn người khác tu tập, và hướng tới giác ngộ và giải thoát
như mình.
Looking at the meaning analytically, we know that Bodhisattva in Sanksrit consists of two
words Bodhi and Sattva; Bodhi means
awakening, enlightenment, and Sattva means
a being or a person. Thus, the Bodhisattva
means that the awakened and enlightened One has the ability to awake
himself/ herself and to awaken other people’s Buddha nature, has the ability to
awake and to water the seeds of their enlightenment to allow them to germinate,
and has the ability to instruct them to cultivate, and to lead them to
enlightenment and deliverance like him/herself.
Đây
là điểm đặc thù của đạo Phật. Xưa cũng như nay, hễ ai có đầy đủ duyên lành tu tập
Phật pháp thì chính họ có thể đạt được an vui, hạnh phúc, giác ngộ, giải thoát,
và bình đẳng như nhau. Thực vậy, đạo Phật luôn tôn trọng và khẳng định con người là tối thắng.
This is the specific point of Buddhism. In ancient time as well as
in present time, those who have enough proper conditions to cultivate
themselves can achieve peaceful joy, happiness, enlightenment, freedom,
equality alike. Indeed, Buddhism always observes and affirms that people are supreme.
Trong
âm Hán Việt, chữ “Hộ” trong “Hộ Minh”
là động từ có nghĩa là giữ gìn, bảo hộ, duy trì, phát triển… ; chữ “Minh”
trong “Hộ Minh” là danh từ có nghĩa
là sáng suốt, sáng tỏ, sáng rõ, trong sạch, tinh khiết, tuệ giác, chiếu sáng, tỏa
sáng…Hộ Minh (Vessantara)[35] là đạo hiệu của một vị Bồ
tát giáng trần, có nghĩa là Người có khả năng giữ gìn ngọn đèn tuệ giác để soi
sáng cho thế gian, để đem lại an lạc và hạnh phúc đích thực cho thế gian. Người
này là hiện thân của thái tử Tất Đạt Đa, tức là hiện thân đức Phật Thích Ca Mâu
Ni, có khả năng đem lại trí tuệ, tình thương, bình đẳng, và hòa bình cho số
đông trên khắp hành tinh này.
In the Sino-Vietnamese, the word “Hộ”
in “Hộ
Minh” is a verb meaning to keep, to protect, to
maintain, to develop, etc.; the word “Minh” in “Hộ Minh”is a noun meaning lucidity, brightness, clear light, purity,
purification, insight, illumination, shine, etc. Hộ Minh (Vessantara),[36] the Dharma title of Bodhisattva, who descends to earth, means that
One has the ability to keep the insightful lamp to shine for the world, to
bring authentic joy and happiness to the world. This person, who is embodiment
of the prince Siddhārtha, namely that of Sakyamuni Buddha, has the ability
to bring wisdom, love, equality, and peace to the many all over the
planet.
Nhân
tiện đây, chúng ta cũng tìm hiểu ý nghĩa của cụm từ Hán Việt “thị
hiện đản sanh”; “thị hiện” có nghĩa là có mặt ở đây; “đản sanh” có nghĩa là sự ra đời của một vị Thánh, cụ thể là đức
Phật Thích Ca Mâu Ni. “Ở đây” chỉ cho thế giới Ta bà này, nơi
mà chúng ta đang sống có nhiều thiên tai, chiến tranh, cướp bóc, tranh giành …xảy
ra. Tất cả các điều ấy đều do lòng tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… của con
người tạo ra.
On this occasion, we also learn about the meanings of the
Sino-Vietnamese phrase “thị hiện đản
sanh”; “thị hiện” means to be present in here; “đản
sanh” means the birth of a holy One, namely the Sakyamuni Buddha. “Ở đây,” meaning “here,”
indicates this earth, where we have been living, there are many calamities,
wars, robberies, struggles, etc., happening. All those things are created by
human hearts of lust, anger, delusion, arrogance, doubt, wrong view, etc.
Đức
Phật và đạo Phật có mặt trên cuộc đời này là để giảng dạy và giáo hóa cho con
người biết tu tập, biết chuyển hóa tham, sân, si…, biết bỏ ác làm lành, biết hướng
thượng và hướng thiện bằng cách áp dụng và thực hành lời Phật dạy vào trong đời
sống hằng ngày của mình, sống đời sống chánh niệm và tỉnh giác, vững chãi và thảnh
thơi để đem lại an lạc và hạnh phúc cho số đông ngay tại thế gian này.
The Buddha and Buddhism that have been present in this world are to
teach and to instruct people to know how to cultivate, to transform desire,
anger, delusion, to give up evil, to do good, to lead them to upper,
righteousness, and good by practicing and applying the Buddha’s teachings into
their daily lives, to live their lives of mindfulness and awakening, steadiness
and liberation to bring peacefulness and happiness to the many right here in
this world.
Cũng
vậy, vì thương chúng sanh, vì đem lại an lạc và hạnh phúc cho chư thiên và loài
người, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện ra cõi Ta bà này, tức là có mặt
ở đây và bây giờ để lắng nghe và chia sẻ tiếng đau thương, than khóc,
và khổ đau của chúng sinh do vì chiến tranh và tội phạm. Người giúp cho chúng
sanh thấy rõ hướng đi hòa bình, bình đẳng, thương yêu, và tôn trọng lẫn nhau bằng
cách thực hành con đường thánh có tám làn xe chạy (the eightfold lane highway),
cụ thể là “cái thấy chân chánh, suy nghĩ
chân chánh, lời nói chân chánh, việc làm chân chánh, nghề nghiệp chân chánh,
siêng năng chân chánh, nhớ nghĩ chân chánh, tập trung và duy trì thân tâm an lạc
chân chánh.”[37]
Likewise, out of loving living beings, out of bringing peacefulness
and happiness to gods and to humankind, the Lord Sakyamuni Buddha has been embodied in the realm of this world, that
is to say, present in the here and the
now to listen and to share their grief, mourning, and suffering du to war
and crime. He helps them to clearly see the way leading to peace, equality,
love, and mutual respect by practicing the noble path with the eightfold lane
highway, namely “Right View, Right
Thought, Right Speech, Right Action, Right Livelihood, Right Effort, Right
Mindfulness, and Right Concentration.”[38]
Tám
làn xe chạy này hỗ trợ với nhau và có nhiều mối tương quan và tương duyên với
nhau rất mật thiết; một là tám và tám là một. Thực vậy, con đường thánh có tám
lane này có khả năng xây dựng trí tuệ, tình thương và hòa bình đích thực cho số
đông, và có khả năng đưa chúng sanh tới bờ an vui và hạnh phúc cho tự thân và
cho tha nhân ngay cuộc đời này.
This eightfold lane highway is mutually supportive and has many
interdependent relations with each other very closely; one is eight and eight is
one. Indeed, the noble path with the eightfold lane has ability to build
wisdom, love, and authentic peace for the many, and has the ability to lead
living beings to the shore of peaceful joy and happiness for oneself and for
others right in this life.
Qua
những gì thảo luận trên đây, chúng ta thấy các cụm từ Bồ tát Hộ Minh (Vessantara), cõi
trời Đâu Suất, voi trắng sáu ngà, hông bên phải, và thị hiện được trình bày
xong. Tiếp đến, kính mời quý vị cùng nhau tìm hiểu những từ ngữ tiếp theo như cây Vô Ưu, chín rồng, phun nước, bảy bước,
hoa sen, dõng dạc nói rằng, và cái ta.
Through the above discussion, we see the phrases of the Vessantara Bodhisattva (Bồ tát Hộ Minh), the realm
of Tusita heaven, the six-tusk white elephant, the hip of right side, and
embodiment have been presented. Next, you are happily invited to together
learn about the following words, such as the
sorrowless tree, nine dragons, sprinkling water, seven steps, lotuses, strongly
saying, and true self.
Khi
sinh ra dưới cây Vô Ưu (Ashoka, Sorrowless Tree), Tất Đạt Đa (Siddhārtha)
sơ sinh hay đức Phật sơ sinh liền đi 7
bước trên 7 hoa sen, tay phải chỉ lên trời, tay trái chỉ xuống đất, dõng dạt
nói rằng: “Trên trời dưới đất chỉ có cái Ta, Phật tánh, tức con người
giác ngộ là tôn kính và quý trọng. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh.”[39]
When being born under the Sorrowless Tree (Ashoka), the newborn
baby named Siddhārtha or
newborn Buddha took seven steps on seven
lotus flowers, his right hand pointed out to sky, his left hand pointed
down to earth, and strongly said: “All
over the world, only true self, Buddha
nature, that is, the enlightened One,
is esteemed and respected. All living beings have Buddha nature.”[40]
Như
quý vị biết tất cả các từ và cụm từ cây,
Vô Ưu, chín, rồng, phun, nước, bảy bước, hoa sen, dõng dạc nói rằng, cái ta, …
đều hàm chứa các ý nghĩa biểu tượng, ẩn dụ, và nhấn mạnh.
As you know all the words and phrases of tree, sorrowlessness,
nine, dragon, sprinkling, water, seven steps, lotus, strongly saying, etc.,
contain the meanings of symbols, metaphors, emphases.
Cây
ở đây được ẩn dụ cho hoàng hậu Ma Da hoan hỷ, trên 40 tuổi rồi mới sanh con,[41] vị thánh hài nhi, tức đức
Phật sơ sinh, con người toại nguyện có đầy đủ phước đức và trí tuệ; Vô trong
vô ưu có nghĩa là không; Ưu có
nghĩa là ưu phiền, buồn phiền, phiền muộn, phiền não, …Vô Ưu
có nghĩa là không phiền muộn, không phiền não, không ưu phiền… Như vậy, cây vô ưu có nghĩa là cây không phiền muộn,
không phiền não, và không ưu phiền, được minh họa cho hai mẹ con thánh Mẫu Ma
Da và thái tử Tất Đạt Đa (Siddhārtha) sơ sinh.
The tree here symbolizes
Queen Maya, who was over 40 years old, gave birth to an only son,[42] a holy
infant, the newborn baby Buddha, a perfectly satisfied Person with sufficiency
of virtue and wisdom; Less in sorrowlessness means empty or void; Sorrow means regret, sadness, trouble,
affliction, defilement, etc.; Sorrowlessness
means non-regret, non-sadness, non-affliction, non-delusion, etc. Thus, the sorrowless tree means the tree without
regret, sandness, affliction, and defilement, and it is the symbol both for the
holy Mother, Maya, and her newborn baby Siddhārtha.
Vì
không bị phiền não và ưu phiền chế ngự, nên thánh Mẫu Ma Da có khả năng hiến tặng
cho trái đất này một con người tỉnh thức, giác ngộ, và giải thoát trọn vẹn, tức
đức Phật lịch sử hiệu là Thích Ca Mâu Ni sau này. Vì không bị phiền não và ưu
phiền chế ngự, nên thái tử Tất Đạt Đa đủ duyên sinh ra trong đời, lớn lên trong
đời, xuất gia, tu tập, giác ngộ, và đem lại an lạc và hạnh phúc cho muôn
loài.
Out of not being overcome by defilement and sorrow, the holy
Mother, Maya has the ability to
dedicate to earth a person of perfect awakening, enlightenment, freedom, namely
the historic Buddha later named Sakayamuni. Out of not being subdued by
defilement and affliction, the prince Siddhārtha had good conditions to be born in the
world, to leave his royal family for a monastic life, to cultivate, to
enlightenment, and to bring peacefulness and happiness to all living things and
living beings.
Theo
cái nhìn thiền quán và tương tức, hạnh phúc của người mẹ chính là hạnh phúc của
người con, và hoan hỷ của người mẹ chính là hoan hỷ của người con, của hoàng
thân quốc thích, và của bá dân thiên hạ…Thánh Mẫu Ma Da hoan hỷ, nuôi dưỡng
thánh thai, sinh ra một Thánh hài nhi từ bi, không ưu phiền,[43] có mặt trên thế gian này
để đem lại tình thương và hòa bình cho pháp giới chúng sinh.
According to contemplative and interdependent vision, the happiness
of a mother is mainly her son’s happiness, and the joy of the mother is mainly
joy of her child, that of her royal nation, and that of her people. The holy Mother,
Maya, who was happy to nourish her
holy fetus, gave birth to her holy and compassionately newborn baby, whose body
and mind were not defiled by lust, anger, delusion,[44] etc.,
who became present in the world to bring infinite love and peace to the realms
of living things and beings.
Một
khi hạt giống thánh, hạt giống an vui, và hạnh phúc có trong con người thánh,
con người an vui và hạnh phúc, thì các hạt giống này và con người này có thể
đem lại an vui và hạnh phúc đích thực cho nhân loại trên khắp hành tinh này.
Phần
số 2 này sẽ được trình bày ở phần số 9: Nhìn
Phật đản qua khía cạnh hòa bình,
mời quý vị theo dõi phần dưới.
Whenever the seeds of holiness, peaceful joy, and happiness are
inherent in the person of holiness, joy, and happiness, these seeds and this
person can bring authentic joy and happiness to living things and living beings
all over the planet.
Part 2 will be presented in part 9: Looking at the Buddha’s Birthday
through aspect of peace, I would
like to invite you to follow the following part of this writing.
3. Nhìn
Phật đản qua khía cạnh biểu tượng hoa sen
Sinh
ra dưới cây Vô Ưu, đức Phật sơ sinh bước đi 7 bước trên 7 hoa sen.[45] Các bước chân đi của Ngài
đều có các đóa hoa sen nâng đỡ. Những bước đi này đích thực là những bước đi an
lạc và hạnh phúc cho số đông nhằm báo hiệu đức Thế Tôn xuất hiện ra đời.
3. Looking at the Buddha’s Birthday via the symbols of the lotus flowers
Being born under the sorrowless tree, the newborn baby Buddha took
the seven steps on the seven lotus flowers.[46] His
steps are lifted up by the lotus flowers. These steps, which are authentically
the steps of peace and happiness for the many, are a sign to us that the
World-Honored One has been present in the world.
“Bảy
đóa sen hồng nâng bước tịnh,
Nở
giữa đầm sen đấng từ bi.”[47]
“The seven pink lotuses lift up his pure heels,
Sen hồng
ở đây tượng trưng cho sự tinh khiết, trong sạch, tỉnh thức, tỉnh giác, chánh niệm,
vững chãi, và thảnh thơi. Ở ngữ cảnh này, sen tượng trưng cho đức Phật và các đức
tính của Ngài. Bảy đóa sen hồng tượng
trưng cho bảy đức Phật:[49]
The pink lotus here
symbolizes purification, purity, awakening, awareness, mindfulness, steadiness,
and freedom. In this context, the lotus symbolizes the Buddha and His virtuous
characteristics. The seven pink lotuses represent for the seven Buddhas:[50]
Đức Phật Tỳ Bà Thi (Vipassì Buddha), đức Phật Thi Khí (Sikhì Buddha), đức Phật
Tỳ Xá Phù (Vessabhù Buddha), đức Phật Câu Lưu Tôn (Kankusandha Buddha), đức
Phật Câu Na Hàm (Konàgamana Buddha), đức Phật Ca Diếp (Kassapa Buddha), và đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni Buddha). Trước sau như một,
bảy đức Phật này đều có đầy đủ các đức tính đặc thù trên.
Vipassì Buddha, Sikhì
Buddha, Vessabhù Buddha, Kankusandha Buddha, Konàgamana Buddha, Kassapa
Buddha, and Sakyamuni Buddha. Consistently
before and after like one, the seven Buddhas are full of the above specific
characteristics.
“Bước tịnh” có nghĩa là bước đi an lạc,
thanh tịnh, bình đẳng, tình thương, và hòa bình, tiêu biểu cho bước đi an vui
và hạnh phúc, vững chãi và thảnh thơi của đức
Phật, đạo Phật, và các đệ tử của Ngài.
“The pure step,” which
means the step of peacefulness, purity, equality, love, and peace, represents
the peaceful and happy, steady and light-hearted steps of the Buddha, Buddhism, and His disciples.
Ở
câu thơ thứ hai, ta bắt gặp các từ đầm
sen, sen, Đấng từ bi; đầm được hiểu
là thế gian; sen được ẩn dụ cho Đấng từ
bi, tức đức Phật, Người có tình thương yêu bao la và rộng lớn của Ngài đối
với chúng sanh muôn loài.
In the second verse, we encounter the words the lotus pond, the Lord of loving-kindness and
compassion; the pond is understood as the world; the lotus symbolizes the
Lord of loving-kindness and compassion, namely the Buddha, who has His immense
and infinite love toward living things and living beings.
Khi
đề cập tới đầm sen, chúng ta nghĩ tới đất, nước, không khí, ánh sáng…đặc biệt
là bùn trong ao. Sen mọc trong đầm,
trong bùn, thì sen mới có giá trị,
trong sạch, và tinh khiết mặc dầu sen không bao giờ mọc trong nước sạch và đất
sạch. Sen ở đây tượng trưng cho sự tinh khiết của đức Phật, cụ thể là thái tử Tất
Đạt Đạ. Sinh ở thế gian, thái tử xuất gia, tu tập, giác ngộ, và thành Phật.
When referring to the lotus pond, we think of land, water, air,
light, etc., especially the mud at the bottom of the pond. The lotus grows up
in the pond, in the mud, it emerges valuable, pure, and clean even though it
has never grown in clean water and land. This represents the purity of the
Buddha, namely the prince Siddhārtha. Being born in the world, the prince
left royal home for a monastic life, cultivated, obtained enlightenment, and
became the Buddha.
Vì
an lạc và hạnh phúc cho số đông, vì tình thương bao la rộng lớn của Ngài đối với
chúng sanh, những chúng sanh nào có duyên với Ngài, học Phật, nghe pháp, và
kính Tăng, thì Ngài có khả năng nhiếp hóa được chúng, và vượt thoát các tiếng
khen, chê, và chỉ trích của thế gian. Nương vào thế gian để hoằng pháp, để giáo
hóa chúng sanh, để đem lại an vui và hạnh phúc cho chúng sanh, đức Phật sống đời
sống chánh niệm và tỉnh thức, vững chãi và thảnh thơi, an vui và hạnh phúc, phản
chiếu trong cử chỉ, lời nói, ý nghĩ, và việc làm của Ngài hoàn hảo và trọn vẹn
đáng được thế gian tôn kính. Nếu Ngài sinh và sống ở cõi trời, thì chúng sinh ở
cõi ta bà này không biết Ngài và họ không có cơ hội để tôn sùng và tôn kính
Ngài.
Out of his wish for peacefulness and happiness for the many, out of
his immensely vast love toward living things and living beings, He wished to be
among them, giving them a good chance to meet Him, to learn the Buddha Way, to
listen to the Dharma, and to respect the Sangha, He had the ability to educate
and to teach them, and was beyond blame, praise, and criticism of the world.
Depending on the world to preach the Dharma, to teach sentient beings, to bring
peacefulness and happiness to them, the Buddha led his life of mindfulness and
awakening, steadiness and freedom, peacefulness and happiness, reflected in his
perfect gestures, speech, thought, and actions, esteemed and revered by the
world. If He was born and lived in a realm of heaven, living beings on earth
would not have known Him and would not have had the opportunity to adore and
respect Him.
Theo
giáo lý Duyên sinh, sen được làm bằng các yếu tố không phải sen như bùn, nước,
không khí, ánh sáng…Sống trong bùn, nhưng sen không bị bùn làm ô nhiễm; nó vươn
lên tới mặt nước, vượt ra khỏi mặt nước xinh tốt, nở hoa tươi đẹp, và kết hạt
tròn trịa. Cũng vậy, sống và hoằng dương chánh pháp trong đời trong suốt 80
năm, nhưng đức Phật không bị đời làm hoen ố, không bị vô minh và phiền não chế
ngự, vẫn an trú vững chãi trong chánh niệm, chánh định, và chánh tri kiến để
đem lại an lạc và hạnh phúc đích thực cho tự thân và cho tha nhân ngay cuộc đời
này.
According to the tenet of Co-arising, the lotus is made of the
various elements in which it grew, such as the mud, water, air, light, etc.
Growing up in the mud, but the lotus is not defiled by the mud; it rises up to
the surface of water, goes beyond the water surface freshly, blooms
beautifully, and it produces full fruit. Likewise, living and spreading the
Dharma in the world throughout 80 years, but the Buddha, who was not stained by
the world, not controlled by ignorance and defilement, still dwelt steadily in
right mindfulness, right concentration, and right clear understanding in order
to bring authentic peacefulness and happiness to himself and to others right in
the present life.
Ở
điểm này, bùn dụ cho phiền não tham,
sân, si, các tiếng thị phi, khen chê của thế gian; sen dụ cho kết quả công phu tu tập thiền quán của đức Phật. Quá
trình tu tập và hoằng dương chánh pháp là quá trình giúp hành giả nhận diện và
chuyển hóa bùn thành sen, phiền não thành Bồ đề, khổ đau thành an vui và hạnh
phúc… Đức Phật đã từng làm như vậy, và các đệ tử của Phật cũng phải bắt chước học
và làm theo hạnh của đức Phật vậy.
At this point, the mud
represents defilements of craving, anger, delusion, concepts of right, wrong,
blame, and praise of the world; the lotus
symbolizes the results of the Buddha’s effort, cultivation, and contemplative
meditation. The process of cultivation and propagation of the Dharma is the
process of helping practitioner identify and transform the mud into the lotus,
defilement into Bodhi – enlightenment, suffering into peacefulness and
happiness, etc. The Buddha has ever done so, and His disciples also have to
imitate and to follow His virtuous conduct.
Học
và thực hành Phật pháp càng nhiều, thì chúng ta càng đạt được nhiều an vui và hạnh
phúc. Học và hành Phật pháp càng ít, thì ta gặt hái kết quả an vui và hạnh phúc
càng ít cho tự thân và cho tha nhân. Không học Phật pháp, ta không biết đâu là
con đường tốt để thực hành. Do vậy, mỗi chúng ta hãy cố gắng tu học và thực
hành Phật pháp ngon lành để đem lại hoa trái an lạc và hạnh phúc cho số
đông.
The more we learn and practice the Buddhadharma, the more we obtain peacefulness and happiness; the
less we learn and practice the Buddhadharma,
the less we obtain the results of peacefulness and happiness for ourselves and
for other people. Not learning the Buddhadharma,
we do not know where the good path is to practice. Therefore, we each try to
cultivate and to practice the Buddhadharma
well in order to bring flowers and fruits of peacefulness and happiness to the
many.
Thật
vậy, sinh trong thế giới loài người, thái tử Tất Đạt Đa có đủ duyên lành xuất
gia, tu tập, giác ngộ, và thành Phật. Ở điểm này, thái tử được xem là con người
hướng thượng, hướng thiện, hướng tới an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha
nhân ngay cuộc đời này. Bắt đầu từ con người bình thường, thái tử nỗ lực tu tập
hướng tới con người phi thường, tức con người giác ngộ và tỉnh thức. Sống chánh
niệm và tỉnh giác, vững chãi và thảnh thơi bằng cách thực hành và an trú sâu
vào thiền định, cuối cùng, Ngài trở thành bậc đạo Sư tâm linh hoàn hảo đáng được
thế gian tôn sùng và quý kính.
Indeed, being born in the world of human beings, the prince Siddhārtha had the good opportunity to leave his royal home for a monastic
life, to cultivate, to attain enlightenment, and to become the Buddha. At this
point, the prince was considered as the person leading to upper, to
righteousness, to good, and to peacefulness and happiness for himself and for
others right in this life. From his beginnings as a normal person, the prince
made an effort to cultivate to lead to an extraordinary person, namely the
enlightened and awakened person. Living in mindfulness and awareness,
steadiness and relaxation by practicing and dwelling deeply in meditative
concentration, finally, he became the perfectly spiritual Master deserving to
be revered and respected by the world.
Rạng ngời như bắc đẩu,
Xin quay về nương nấu,
Bậc Thầy của nhân thiên.”[51]
“Freshness and
beauty as the lotus flower
Bright light as the Northern star
We would like to turn back and take
refuge
in the Teacher of gods and human beings.”[52]
Hơn
nữa, sen tượng trưng cho sự tinh khiết, trong sạch, không ô nhiễm…Bùn tượng
trưng cho phiền não, khổ đau, bất hạnh, nhiễm ô, hoen ố, tham, sân, … Từng bước
hướng thượng và hướng thiện; tu tập là quá trình thanh lọc và chuyển hóa phiền
não thành Bồ đề; khổ đau và bất hạnh thành an vui và hạnh phúc; nhiễm ô và hoen
ố thành tinh khiết và trong sạch. Nếu chúng ta hiểu và thực hành như vậy, thì
an lạc và hạnh phúc thấm nhuần và làm mát dịu thân tâm.
Moreover, the lotus symbolizes the purity, cleanness, spotlessness,
etc. The mud represents defilements, suffering, unhappiness, smeariness, stain,
greed, anger, etc. Every step leads us to good and to righteousness; cultivation
is the process of purifying and transforming defilements into Bodhi –
enlightenment; suffering and unhappiness into peacefulness and happiness;
impurity and stain into purity and cleanness. If we understand and practice it
like this, peacefulness and happiness have the ability to permeate and to make
our bodies and minds cool.
“Sen
quý nở đài giác ngộ,
Hào quang chiếu rạng mười phương,
Trí tuệ vượt tầm pháp giới,
Từ bi thắm nhuần non sông,
Vừa thấy dung nhan điều ngự,
Trăm ngàn phiền não sạch không,
Hướng về tán dương công đức,
Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng.”[53]
“The precious lotus
blooms in the enlightened pedestal
The halo illuminates the
ten directions,
Wisdom is beyond the
Dharma realm,
Loving-kindness and
compassion are instilled in mountains and rivers
Having just seen the
Buddha’s beautiful countenance,
Hundreds and thousands
of defilements are fully cleansed,
Minds are led to
praising the merit
Diligence of the Dharma
career is cultivated.”[54]
Ở
trong ngữ cảnh đức Phật đản sinh, hoa sen được mô tả ở đây là những ẩn dụ rất đẹp và rất ý nghĩa nhằm báo
hiệu cho mọi người biết rằng đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Người sinh ra trong đời,
lớn lên trong đời, và thành tựu trong cuộc đời bằng cách đem lại an lạc và hạnh
phúc cho số đông, nhưng Ngài không bao giờ bị đời làm ô nhiễm. Cuộc đời của
Ngài là bài học vô cùng giá trị và quý báu để cho các dân tộc trên thế giới học
hỏi và noi theo.
In the context of the Buddha’s Birthday, the lotus flower, which is
described here as a very beautiful and very meaningful metaphor, signals to us that the Sakyamuni Buddha was born in the world, grew up in the world, and
succeeded in the world by bringing peacefulness and happiness to the many, but
He was never defiled by the world. His life is an extremely valuable and
precious lesson for the peoples all over the world to learn about and
follow.
Hơn
nữa, chúng ta biết rằng hình ảnh đức Phật sơ sinh bước đi 7 bước trên 7 hoa
sen, và những lời nói khẳng định mạnh mẽ của Ngài được các nhà viết sử mô tả
bao gồm nhiều ý nghĩa biểu tượng và ẩn dụ thiết thực và nhấn mạnh. Hình ảnh này
chỉ được tìm thấy trong đạo Phật nhằm để tôn vinh và xác nhận rằng con người tỉnh thức và giác ngộ là trên hết.
Moreover, we know that the image of the newborn baby Buddha taking
the seven steps on the seven lotus flowers, and His strongly affirmative
speeches are described by historians as containing many meanings of symbols and
metaphors authentically and emphatically. This image, which is found in
Buddhism, is to honor and to affirm that awakened
and enlightened people are topmost.
4. Nhìn
Phật đản qua khía cạnh con người tối thắng
Lúc
sinh ra, một tay phải chỉ lên trời, một tay trái chỉ xuống đất, đức Phật sơ
sinh dõng dạc nói rằng: “Trên trời dưới đất,
chỉ có con người là tôn quý. Tất cả
chúng sanh đều có Phật tánh.”[55]
4. Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of the supreme person
At the time of being born, his right hand pointed up to sky, his
left hand pointed down to earth, the newborn baby Buddha bravely stated: “All over the world, there is only the
venerably precious person. All human beings have Buddha nature.”[56]
Con người (Mānusa) ở đây chỉ chung cho con người tỉnh thức, cụ thể là
đức Phật (Buddha) – Bậc tỉnh thức và giác ngộ vẹn toàn. Theo tư tưởng của đạo
Phật, con người là tối thắng; ngoài con người ra, không có một đấng thần linh
có thể thay thế.
Person (Mānusa) here indicates generally
a person of awakening, namely the Buddha
– the perfectly awakened and enlightened One. According to Buddhist thought,
Person is supreme; apart from the person, no one or no god can replace him or
her.
Theo
tư tưởng của Bà La môn giáo (Brahmanism)
hay các tôn giáo khác, Phạm thiên (Brahma)
hay đấng sáng tạo là tối cao. Con người được xem là con người tôn giáo ở vị trí
thấp lắm. Vì con người ở vị trí thấp, nên đôi lúc họ chỉ biết phục tùng, vâng lệnh,
và tin theo bề trên. Ví dụ, nếu bề trên nói rằng người nào làm thiện thì được
lên thiên đàng mãi mãi, và người nào làm điều bất thiện thì đọa địa ngục mãi
mãi; những lời nói này đầy hăm dọa thiếu chánh kiến, chánh tuy duy, chánh ngữ…
According to thoughts of Brahmanism
or other religions, Brahma or Creator
is supreme. People are considered as people of religion in a very low position.
Because people are in the very low position, sometimes they only know to
comply, to obey, and to believe in superior beings. For example, if the superior
being says that those who do good will go to heaven forever, and that those who
do non-good will fall down to hell forever; these words, which are full of
threats, show a lack of right view, right thought, right speech, etc.
Là
người tu học Phật pháp ngon lành, chúng ta phải quán chiếu những lời nói đó
đúng hay sai. Nếu những lời nói đó không đúng chúng ta loại bỏ ngay, hoặc nếu
những lời nói đó đúng chúng ta mạnh dạn duy trì, phát triển, áp dụng, và thực
hành nó vào trong đời sống hằng ngày của chúng ta để đem lại an lạc và hạnh
phúc cho số đông.
As people cultivating and learning the Buddhadharma well, we must contemplate those speeches which are
correct or incorrect. If those speeches are incorrect, we remove them immediately,
or if they are correct, we strongly maintain, develop, apply, and practice them
in our daily lives to bring peacefulness and happiness to the many.
Theo
quan điểm của đạo Phật, dù bạn làm thiện được phước sinh lên cõi trời, nhưng nếu
bạn không nỗ lực tu tập để tích lũy thêm điều phước thiện, bạn sẽ gặp khổ đau
như thường; hoặc dù bạn làm điều bất thiện đọa xuống địa ngục, nhưng nếu bạn cố
gắng tu tập để chuyển hóa thân tâm, phước đức của bạn tăng dần, bạn sẽ sinh lên
cõi trời và cõi người.
According to standpoints of Buddhism, although you do good in order
to obtain blessings to be reborn in a realm of heaven, if you do not make an
effort to cultivate to accumulate many additional blessings, you will get
suffering as usual; or although you do non-good and fall in hell, if you try to
cultivate to transform your body and mind, your happiness and virtue increase
gradually, and you will be reborn in a realm of heaven and that of human
beings.
Khi
phúc đức của bạn tăng trưởng, bạn phải biết cách nuôi dưỡng, vun trồng, và phát
triển phúc đức của bạn bằng cách làm các việc lành, giữ tâm ý trong sạch, chánh
niệm, và tỉnh giác. Nếu bạn hiểu và làm được như vậy, Phật tánh trong bạn dần dần
trở nên bừng sáng.
When your happiness and virtue increase, you have to know how to
nurture, to cultivate, and to develop them by doing good things, keeping your
mind purified, mindful, and awakened. If you understand and practice like this,
Buddha nature in you gradually becomes illuminated.
Dĩ
nhiên, trong quá trình tu tập và chuyển hóa thân tâm, bạn phải tinh tấn dõng
mãnh trong một thời gian dài, thì bạn mới đạt được an vui và giải thoát. Nhưng
bạn nên nhớ rằng thực tập Phật pháp càng vững chãi, thì bạn sẽ càng đạt được
nhiều an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay trong cuộc sống hiện
tại.
Of course, in the process of cultivation and transformation of your
body and mind, you have to make a strong effort for a long time, you are able
to obtain peacefulness and liberation. But you should remember that the more
steadily you practice the Buddhadharma,
the more you will obtain peacefulness and happiness for yourself and for others
right in the present life.
Thực
vậy, theo cái nhìn của đạo Phật, con người
đối với Phật giáo là con người chuyển
hóa và chuyển nghiệp ở vị trí rất
quan trọng và tối thắng; Phạm thiên hay đấng sáng tạo chỉ ở vị trí bình thường
mà thôi bởi vì con người có đầy đủ Phật tánh, Phạm thiên tánh, và Thượng đế
tánh nếu con người biết tu tập, chuyển hóa phiền não thành Bồ đề, khổ đau thành
an vui, hạnh phúc, và hướng đến giác ngộ và giải thoát; lúc bấy giờ, Phật tánh của con người và của vị giác ngộ đều bình đẳng
như nhau.
Indeed, according to Buddhist vision, person toward Buddhism is the person
of transformation and Karma changing in
a very important and supreme position. Brahma or Creator is only in a normal
position because the person has
enough Buddha nature, Brahma nature,
God nature if the person knows to cultivate, to transform defilement into
Bodhi, suffering into peacefulness and happiness, and leads to enlightenment
and freedom; at that time, Buddha nature
of the person and that of the enlightened One is equal alike.
Phật
giáo xem con người giác ngộ là tối thắng;
con người giác ngộ có nghĩa là con người hướng thượng và hướng thiện, hướng tới
an vui và giải thoát đích thực, cụ thể là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Thực vậy, đạo
Phật luôn đề cao và nhấn mạnh rằng chỉ có con
người mới có khả năng tu tập và chuyển nghiệp – chuyển phàm phu thành thánh
quả; chỉ có con người tỉnh thức, giác ngộ và giải thoát mới có khả năng đem lại
an lạc, hạnh phúc, tình thương, và hòa bình cho tự thân và cho tha nhân ngay
bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại. Ngoài con người này ra, không có một
Phạm thiên hay đấng thần linh nào có đảm trách và thay thế.
Buddhism considers an
enlightened person as the uppermost;
the enlightened person means the person leads to upper and good, to authentic
peacefulness, and liberation, namely the Sakyamuni
Buddha. Indeed, Buddhism always dignifies and emphasizes that merely the person has the ability to cultivate and
to transform Karma – transform human being into Arahantship; only the person of awakening, enlightenment, and
freedom has the ability to bring peacefulness, happiness, love, and peace to
oneself and to others right here and right now in the present life. Apart from
the person, no Brahma or no god can undertake and replace.
Để
nhấn mạnh và diễn tả con người tối thắng,
chúng ta biết lúc thành đạo dưới cội cây Bồ đề, đức Phật an trú vững chãi trong
thiền định và quán chiếu rằng chưa đúng lúc để cho Ngài đi thuyết pháp. Lúc đó,
sau 3 lần Phạm thiên Sahampati[57] thưa thỉnh đức Phật để đi
thuyết pháp cho chúng sanh, đức Phật đồng ý lên đường vận chuyển bánh xe chánh
pháp.
To emphasize and to describe the topmost person, we know when attaining enlightenment under the
Bodhi tree, the Buddha dwelled steadily in concentration meditation, and
contemplated that it was not a suitable time for Him to preach the Dharma yet.
At that time, after three times Brahma Sahampati[58]
has invited
the Buddha to go to preach the Dharma to human beings, the Latter agreed to
travel on the path to set the Wheel of the Dharma in motion.
Theo
tư tưởng của Bà-la-môn (Brahmanism)
và Ấn Độ giáo (Hinduism), Phạm thiên được xem là đấng tối cao của tôn giáo
của họ, là vị vua trời cao nhất của các chư thiên, được tin tưởng một cách triệt
để mặc dù Phạm thiên chỉ do con người suy nghĩ và tưởng tượng mà ra, và không
có ai thấy đấng Phạm thiên nào cả.
According to Brahmanism and Hinduism, the Brahma that is considered
as a Supreme Being of their religion is the highest king of gods, is absolutely
believed in although the Brahma is only thought and imagined, no one sees any
Brahma.
Tuy
nhiên, Kinh điển Phật giáo, đặc biệt là Tương Ưng Bộ, Kinh Tôn Kính, Chương VI,
phần II,[59]
(Samyutta Nikaya VI.2- Garava Sutta-
Reverence) có đề cập rằng Vị Phạm thiên này đích thân tới gặp đức Phật và
thỉnh Phật trụ thế ở đời lâu dài để đem đạo và ánh sáng tuệ giác, từ bi, và trí
tuệ đến cho pháp giới chúng sinh muôn loài.
Ở
điểm này, chúng ta thấy có các điểm đặc thù được nhấn mạnh dưới đây như sau:
However, Sutras of Buddhism, especially Samyutta Nikaya VI.2- Garava Sutta-
Reverence mentions
that this Brahma himself goes to meet the Buddha and invites the Latter to live
long in the world to bring the path and light of insight, loving-kindness,
compassion, and wisdom to living things and living beings.
At this point, we see that there are
specific characteristics emphasized below:
a. Phật
pháp vi diệu, thiết thực hiện tại, vượt thoát thời gian, đến để thấy, đến để
nghe, đến để hiểu ...
b. Phật pháp có giá trị rất nhiều khi đức Phật
được vị Phạm thiên này cung thỉnh.
c. Đề cao và tôn kính Phật pháp, con Người tối
thắng – đức Phật Thế Tôn – Người nói pháp
d. Thời gian thích hợp cho đức Phật để đi hoằng
Pháp
f. Thỉnh và giảng pháp đúng thời, đúng nơi, và
đúng đối tượng, pháp trở nên có giá trị, người nói
pháp
có thêm uy lực, và người nghe pháp có thêm tín tâm.
g. Có tinh thần tự độ và độ tha.
a. The Buddha Dharma is wonderful, practical in
the present, beyond time, you come and see,
come and listen, come and understand,
etc.
b. His Dharma has very much value when the
Buddha is invited by the Brahma.
c. Dignifying and respecting His Dharma,
the supreme Person – the World-Honored Buddha – the
Dharma preacher
d. Time is suitable for Him to go to
propagate the Dharma
f. Inviting and teaching the Dharma at right
time, at right place, and with right object, the Dharma
becomes valuable, the Dharma preacher has
the additional energy, the Dharma listener has
deeper confidence.
g. With
the spirit of helping oneself and others.
Thực
vậy, pháp thoại được người thành tâm thưa thỉnh, được khéo thuyết giảng đúng
lúc, đúng nơi, và đúng đối tượng, thì pháp thoại và người nói pháp đều có thêm
uy lực, sức mạnh, và giá trị tâm linh rất nhiều; ngược lại, pháp thoại không do
người thưa thỉnh, nói không đúng lúc, không đúng chỗ, và không đứng đối tượng,
thì đôi lúc pháp thoại và người nói pháp trở nên có ý nghĩa và giá trị một chút
hoặc không có ý nghĩa và giá trị.
Indeed, Dharma talk is whole-heartedly invited, well preached at
right time, at right place, and at right object, Dharma preacher and his Dharma
talk have additional power, strength, and very much spiritual value. In
contrast, the Dharma talk is not invited, is preached not at right time, not at
right place, and not at right object, sometimes the Dharma preacher and his
Dharma talk become a little bit meaningful and valuable, or meaningless and
valueless.
Trên
đây, nhìn Phật đản qua khía cạnh con người tối thắng vừa được trình bày xong.
Tiếp đến, chúng ta nhìn Phật đản qua
khía cạnh con người bình thường.
Looking at the Buddha’s
Birthday via aspects of the topmost person has been above presented, next
we look at the Buddha’s Birthday through aspects of normal person.
5. Nhìn
Phật đản qua khía cạnh con người bình thường
Con
người bình thường, trước hết, phải là con người 5 uẩn gồm có sắc, thọ, tưởng, hành, và thức được chia
làm 2 phần: đó là Danh và sắc (Nāma and rūpa = name and form, or mind and body).[60] Danh (Nāma) thuộc về tâm gồm có thọ, tưởng, hành
và thức; và sắc (Rūpa)
thuộc về thân gồm có yếu tố đất – chất cứng, yếu tố nước – chất lỏng,
yếu tố lửa – chất nóng, và yếu tố gió –
sự chuyển động. Danh và sắc, hay thân và tâm tạm được chia ra như vậy là để
cho người học dễ hiểu, chứ thật ra, cả hai chỉ là một mà thôi, đó là con người
năm uẩn.
5. Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of the normal person
The normal person, first of all, must be the person of aggregates
that consists of form, feelings, perception, mental formations, and
consciousness is divided into two parts: that is nāma and rūpa = name and form, or mind and
body.[61] Nāma referring to the mind is comprised of feelings, perception, mental
formations, and consciousness; and rūpa
referring to the body is
comprised of earth elements (pruṭhavī-dhātu) –
solidity, water elements (āpa-dhātu) – liquid, fire elements (teja-dhātu) –
warmth, wind elements (vāyu-dhātu) – movement. Nāma and rūpa
=
name and form, or mind and body that are temporarily divided like this are for a learner to easily
understand, but factually, both of which are only one, namely the person of
aggregates.
Yếu tố đất – chất cứng gồm có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương,
nội tạng, ruột…
yếu tố nước – chất lỏng gồm có mật, đờm, máu, mủ, mồi hôi, chất béo, nước mắt,
mũi nhầy, nước tiểu…
yếu tố lửa –
chất nóng gồm có cơ cấu thân thể
tạo ra hơi ấm vật lý, lão hóa, tiêu hóa…
yếu tố gió – sự chuyển động gồm có không khí liên quan với hệ thống phổi, hơi thở,
gió trong bụng và đường ruột…
Danh và sắc, hay tâm và thân tương thuộc với
nhau, và không thể tách rời nhau.
Earth elements (pruṭhavī-dhātu) –
solidity include head hair, body hair, nails, teeth, skin, flesh, sinews,
bone, organs, intestines, etc.
Water elements (āpa-dhātu) – liquid include bile,
phlegm, blood, pus, sweat, fat, tears, nasal mucus, urine, etc.
Fire elements (teja-dhātu) – warmth include those
bodily mechanisms that produce physical warmth, ageing, digestion, etc.
Wind elements (vāyu-dhātu) – movement include air
associated with pulmonary system, breathing, winds in the belly and bowels,
etc.
Name and form, or mind and
body (Nāma and rūpa) are interdependent with
each other, and inseparable.
Thật
vậy, con người bình thường được gọi là con người duyên sinh (Pali: paticcasamuppāda)(ta), con người tương thuộc (không ta), hay con người vô ngã; vô ngã
(Pali: anattā) có nghĩa là các yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành, và thức không
tồn tại độc lập và riêng biệt; ta và không ta là một, con người duyên sinh và
con người tương thuộc là một, và một là tất cả.
Indeed, the normal person is called as the person of dependent
arising (Pali: paticcasamuppāda) (self), that of interdependence, or that of no self; no self (Pali: anattā) means the elements of form, feelings,
perception, mental formations, and consciousness do not exist independently and
separately; self and no self become one, the person of dependent arising and
that of interdependence are one, and one is all.
Theo
cái nhìn thiền quán của đạo Phật, con người này không chấp một duyên duy nhứt,
một chủ thể tuyệt đối, một linh hồn bất biến, và một đấng sáng tạo vĩnh cửu.
Con người bình thường, năm uẩn, duyên sinh, hay vô ngã đều được gọi là con người
vô thường, phàm phu, hoặc thánh nhân. Con người này sinh ra trong đời, lớn lên
trong đời, và thành tựu trong cuộc đời đều phải trải qua các giai đoạn già, bệnh,
chết, nghiệp lực, chuyển biến…
According to contemplative vision of Buddhism, this person does not
accept a unique condition, an absolute subject, an unchanging soul, an eternal
Creator. The person of normality, five aggregates, dependent arising, or no
self is called as the person of impermanence, secularity, or saint. This
person, who was born in the world, grows up in the world, and succeeds in the
world, must undergo stages of birth, old age, sickness, and death, Karma power,
changing, etc.
Học
sử Phật giáo, chúng ta biết khi tham quan bên ngoài 4 cửa thành, thái tử Tất Đạt
Đa (Siddhārtha)
và người hầu cận tên là Sa Nặc (Channa)
thấy rõ các cảnh tượng thật, đó là người già, người bệnh, người chết, và vị Khất
sĩ. Khi nhìn thấy các cảnh tượng đó, thái tử liền có những dòng suy tư và quán
chiếu đời sống của mình và của con người như thế này; là con người, ai cũng phải trải qua các giai đoạn sinh, già, bệnh, và
chết; là con người, ai cũng phải tạo ra các nghiệp thiện và nghiệp bất thiện;
là con người, ai cũng phải có Phật tính, v.v...
Learning the history of Buddhism, we know that when going
sightseeing outside the four gates of the royal palace, the prince Siddhārtha and
his charioteer named Channa clearly saw real scenes, that is, an old person, a sick
person, a dead person, and a mendicant. When having seen those scenes already,
the prince immediately had streams of thoughts, and contemplated his life and
human beings’ lives like this; as human
beings, everyone must also undergo the stages of birth, old age, sickness,
death; as human beings, everyone must also create good Karmas (actions) and non good Karmas; as human beings, everyone must also have Buddha
nature, etc.
Thật
vậy, để đem lại an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân trên thế gian
này, để đem lại tình thương và hòa bình đích thực cho muôn loài chúng sanh,
nương vào con người duyên sinh và vô thường này, Bồ tát Tất Đạt Đa (Bodhisattva Siddhārtha) quyết định chọn
con đường xuất gia, con đường tu tập, con đường hướng thượng và hướng thiện, hướng
tới giác ngộ, an vui, giải thoát, và Bồ tát quán chiếu rằng:
Actually, to bring peacefulness and happiness to himself and to
others in this world, to bring authentic love and peace to living things and
living beings, depending on this person of dependent arising and impermanence, Bodhisattva Siddhārtha
decided to choose the path of leaving his royal home for a monastic life, the
path of cultivation, the path leading to upper and to good, leading to
enlightenment, peaceful joy, freedom, and Bodhisattva contemplated:
“Thế nào tôi cũng phải già nua, tôi không thể
nào tránh thoát khỏi già nua;
Thế nào tôi cũng phải bệnh, tôi không thể nào tránh
thoát khỏi bệnh;
Thế nào tôi cũng phải chết, tôi không thể nào tránh
thoát khỏi cái chết;
Tất cả những gì do nghiệp thân, nghiệp khẩu, và nghiệp
ý của tôi tạo tác và gây ra, tôi không thể nào xa
lìa và tránh khỏi dù đó là nghiệp thiện hay nghiệp bất
thiện;
Tất cả những nghiệp thiện và bất thiện do tôi tạo
tác; ý thức rằng nghiệp thiện tôi tiếp tục phát huy, duy
trì, và phát triển; nghiệp bất thiện tôi cố gắng
buông bỏ, loại trừ, và chuyển hóa;
Tất cả những người thân, người thương, và những gì
tôi trân quý hôm nay, một mai này chắc chắn tôi sẽ
xa lìa và buông bỏ, tôi không thể nào tránh khỏi sự
xa lìa và buông bỏ ấy.”[62]
“I am certain to
also have to get old, I cannot get rid of aging;
I am certain to also have to get sick, I
cannot get rid of sickness;
I am certain to also have to die, I
cannot get rid of death;
All what is created and caused by my
bodily karma, verbal karma, and mental karma, I cannot renounce
and escape from whether it is good karma
or non-good karma;
All good karmas and non-good karmas are
created by me; aware that my good karmas I keep on
promoting, upholding, and developing; my
non-good karmas I try to let go of, to eliminate, and to
transform;
All relatives, loved ones, and what I
cherish today, one day I will certainly renounce and let go of them,
I cannot escape from renouncing and
letting go of them.”[63]
Quán
chiếu con người bình thường như vậy bằng cách học hạnh xả ly và buông bỏ chấp
thủ, Bồ tát quyết chí xuất gia, nỗ lực tu tập, và an trú vững chãi vào thiền định.
Cuối cùng, Ngài giác ngộ viên mãn, và thành Phật – Bậc tỉnh thức vẹn toàn, đem
tình thương và ánh sáng hòa bình đích thực cho nhân thế.
Contemplating the normal person like this by learning conduct of
renouncing and letting go of clinging, the Bodhisattva decided to leave royal
home for a monastic life, to make an effort, and to dwell steadily in
concentrated meditation. Finally, he obtained perfect enlightenment and became
the Buddha – the fully awakened One, brought love and the light of authentic
peace to humanity.
Thực
vậy, những điều quán chiếu trên đây rất thiết thực hiện tại mang nhiều ý nghĩa
chuyển hóa và tu tập, an vui và hạnh phúc. Là con người bình thường, là đệ tử của
đức Thế Tôn, khi chúng ta khéo biết tu tập và chuyển hóa nghiệp bằng cách quán
chiếu, áp dụng, và thực hành giáo pháp của đức Thế Tôn vào trong cuộc sống hằng
ngày của mình, thì hiện tại ta sống rất an lạc, và tương lai ta sống rất an
vui; chúng ta hiểu và thực hành Phật pháp được như vậy, thì an lạc và hạnh phúc
có khả năng thấm nhuần và làm mát dịu thân tâm.
Indeed, the above discussed contemplation things that are very
practical in the present bring many meanings of transformation and cultivation,
peacefulness and happiness. As the normal people, as the World-Honored One’s
disciples, when we skillfully know to cultivate and to transform our karma by
contemplating, applying, and practicing His teachings in our daily lives, in
the present we live very tranquilly and peacefully, and in the future we will
live very tranquilly and joyfully; we understand and practice His Dharma like
this, peacefulness and happiness have the ability to permeate and make our
bodies and minds cool.
6.
Nhìn
Phật đản qua khía cạnh kham nhẫn, trí tuệ, hướng thượng, hướng thiện, an vui,
và giải thoát
Trải
qua 6 năm tu khổ hạnh với 5 anh em Tôn giả A Nhã Kiều Trần Như, nhà tu Tất Đạt
Đa chỉ ăn lá và trái cây rừng để nuôi thân. Cuối cùng, xét thấy lối tu khổ hạnh
ép xác này không đem lại an lạc và lợi ích cho thân tâm, Ngài quyết định rời 5
người bạn đồng tu và bỏ lối tu ấy bằng cách thọ nhận bát cháo sữa của nàng
Su-dà-ta (Sujata) và chọn con đường Trung Đạo (majjhimāpaṭipadā): “không tu khổ hạnh ép xác và không tham đắm dục
lạc.”
6. Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of endurance, wisdom,
leading to upper, to good, peacefulness, and liberation
Spending the six years practicing asceticism with his five brothers
of the Elder Añña Kondañña, the monk Siddhārtha only
ate leaves and fruits in the forest to feed his body. Finally, examining the
way of this self-asceticism did not lead peacefulness and happiness to his body
and mind, he decided to leave the five fellow monks and to give up that way by
receiving a bowl of a milky porridge from a young lady named Sujata and choosing the Middle Path (majjhimāpaṭipadā): “Non-
self-indulgence and non-self-mortification.”
Ở
điểm này, các vị cổ Đức thường nói: “Có
thực mới vực được đạo.” Nhờ thọ dụng bát cháo sữa của nàng cúng, nên sức khỏe
của Ngài dần dần trở nên bình phục. Sau khi thọ dụng xong, Ngài đem bát không
quăng xuống sông Ni Liên Thiền (Neranjara),
phát nguyện, và nói rằng: “Nếu cái bát này trôi ngược dòng nước,
thì việc tu tập của Ta chắc chắn sẽ
đạt thành đạo quả.” Quả thật, chọn con đường Trung đạo để tu tập và hướng tới
giác ngộ, cuối cùng, Ngài thành tựu được đạo quả tốt đẹp.
At this point, the Elder usually say: “The way to one’s heart is through one’s stomach.” Thanks to eating
the bowl of milky porridge offered by her, his health gradually became
recovered. After having eaten it, he took that bowl to throw it down to Neranjara river, opened his vows, and
said: “If this bowl drifts upstream
against water, my cultivation will certainly obtain Arahantship.” Actually,
choosing the Middle Path (majjhimāpaṭipadā) to cultivate and to lead him to
enlightenment, finally, he achieved the well fruitful path.
Như
quý vị biết cái bát này là một ví dụ
cụ thể minh họa cho “đời sống chánh niệm, giác ngộ, và tỉnh thức” của hành giả
Tất Đạt Đa (Siddhārtha).
Trôi ngược dòng có ý nghĩa ngược lại
với trôi xuôi dòng; trôi xuôi dòng
có nghĩa là mọi người sống ở đời đều phải bị vướng bận gia đình và con cháu; trôi ngược dòng có nghĩa là hành giả sống
ở đời, nhưng không bị vướng bận gia đình và con cháu. Nước dụ cho tham ái, ràng buộc, bận bịu, bám víu … Ta ở đây là đại từ ngôi thứ nhất được
hiểu là “hành giả.”
As you know this bowl is a specific example exemplified life of
mindfulness, enlightenment, and awakening of practitioner Siddhārtha. Drifting upstream means
has the opposite meaning to drifting
downstream; drifting downstream means everyone living in the world has to
be busy with family and descendants; Drifting
upstream means the practitioner living in the world, but not busy with his
royal family and descendants. Water is
the symbol for lust, tie, busyness, clinging, etc. I here is the first person singular pronoun understood as the
“practitioner.”
Vậy,
trôi ngược dòng sông có ý nghĩa tổng
quát là mọi người ở đời sống đời sống có gia đình, hành giả sống đời sống không
có gia đình, không bị ràng buộc bởi các ràng buộc gia đình, vợ chồng, và con
cái, sống đời sống có nhiều tự do, thong dong và tự tại, có nhiều thời gian để
tu tập và để hướng dẫn người khác, đi trên con đường hướng thượng và hướng thiện,
hướng tới an vui và hạnh phúc cho số đông.
Thus, drifting upstream
against the river generally means everyone in the world lives a life with
the family, the practitioner who lives a life without the family is not tied by
ties of his royal family, spouse, and children, lives his life with much
freedom, relaxation, and carefreeness, with much time to cultivate and to teach
other people, travels on the path leading to upper and to good, to peacefulness
and happiness for the many.
Câu
trên vừa đề cập có thể viết lại là: “Nếu
hành giả an trú vững chãi trong niệm, trong định, và trong tuệ, thì hành giả chắc
chắn sẽ gặt hái được nhiều hoa trái an vui và hạnh phúc đích thực cho số đông
trên khắp hành tinh này.” Đây là mệnh đề điều kiện thứ nhứt, nếu áp dụng và
thực tập Phật pháp ngon lành vào trong đời sống hằng ngày của mình, thì hành giả
chắc chắn có thể gặt hái những hoa trái an vui và hạnh phúc ngay bây giờ và ở
đây trong cuộc sống hiện tại. Thật vậy, vun trồng, nuôi dưỡng, và phát triển việc
làm thiện, ý nghĩ thiện, và lời nói thiện, thì chắc chắn hành giả sẽ đạt được
an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay cuộc đời này.
The above mentioned sentence can be rewritten: “If the practitioner dwells steadily in
mindfulness, in concentration, and in wisdom, he will certainly obtain many
flowers and fruits of authentically peaceful joy and happiness for the many all
over this planet.” It is the first condition clause, if applying and
practicing the Buddha Dharma well in our daily lives, the practitioner can
certainly reap flowers and fruits of peacefulness and happiness right here and
right now in the present life. Indeed, cultivating, nourishing, and developing
good doings, good thoughts, and good speeches, the practitioner will certainly
achieve peacefulness and happiness for himself and for others right in this
life.
Từ
đó, Bồ tát Tất-đạt-đa nhận bó cỏ Kiết tường (Kusa) của người nông phu cúng dường để làm bồ đoàn, đi tới Bồ đề đạo
tràng, ngồi thiền dưới gốc cây Bồ đề, và thệ nguyện rằng: “Dù xương tan thịt nát, nếu chưa
thành chánh giác, Ta quyết không rời chỗ này.” Nhờ lời nguyện dõng mãnh
ấy, cuối cùng, Ngài đạt thành đạo quả giác ngộ và trở thành Phật.
Afterward, Bodhisattva Siddhārtha, who received a bundle of auspicious
grass (Kusa) offered by a farmer to
make a cushion, walked to Bodhgaya, sat in meditation under a Bodhi tree, and
vowed: “Though my bone and flesh get crushed, if I have not attained
enlightenment yet, I decide not to leave this place.” Thanks to the
courageous vows, finally, He attained enlightenment and became the Buddha.
Vậy,
trên lộ trình tu tập, hướng thượng và hướng thiện, trước khi thành Phật, Bồ tát
Tất Đạt Đa (Siddhartha) luôn thực tập
hạnh kham nhẫn và trí tuệ; kham nhẫn là lối tu tập vững
chãi; trí tuệ là lối tu tập sáng suốt. Nhờ chọn lọc lối tu đúng đắn, Bồ tát khéo
vận dụng chánh kham nhẫn, chánh trí tuệ, và chánh tri kiến vào đời sống tu tập
hằng ngày của mình để không rơi vào các lối tu cực đoan như đứng một chân như
cò, bò vòng quanh đóng lửa, phơi thân suốt ngày đêm ngoài nắng và trong sương,
để râu, tóc, lông, móng thật dài…
Thus, on the route of cultivation, leading to upper and to good,
before becoming the Buddha, Bodhisattva Siddhartha
had always practiced patience
and wisdom; the patience is the way
of steady cultivation; the wisdom is the way of lucid cultivation. Thanks to
choosing the way of correct cultivation, the Bodhisattva skillfully made use of
right patience, right wisdom, right understanding in his daily cultivation life
in order not to fall into the extreme cultivation ways, such as standing a leg
like a stork, crawling around a heap of fire, exposing himself throughout the
day and night in the sun and in the mist, letting beards, head hair, body hair,
nails be so long, etc.
Cuối
cùng, Bồ tát đoạn tận phiền não, vô minh, lậu hoặc, và đích thực trở thành con người tỉnh thức và giác ngộ viên mãn dưới
cội cây Bồ đề ở Bồ Đề Đạo tràng, Ấn Độ ngày nay.
Từ
thời gian đó cho tới bây giờ, đạo Phật không những được truyền bá trong nước Ấn
Độ, mà còn truyền bá trong nhiều nước trên thế giới cổ đại và hiện đại.
Finally, the Bodhisattva eliminated defilements, ignorance, lapses,
and authentically became the person of awakening and enlightenment under the
tree of Bodhi – Enlightenment, India today.
From that time until now, Buddhism – the path of peace, has been
not only spread in India, but also in many countries in the ancient and modern
world.
Khi
đản sinh, đức Phật sơ sinh nói một câu bất hữu trong lịch sử nhân loại: “Trên
trời dưới đất, chỉ có con Người (Ta)
là tôn quý, tất cả chúng sinh đều có Phật tính.” (Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn, nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh.”[64] Con người được nhấn mạnh ở
đây là một đại từ vừa chỉ cho đức Phật, vừa chỉ cho con người bình thường,
không phải là một đấng thần linh. Như vậy, câu nói lịch sử này chỉ được tìm thấy
trong đạo Phật – đạo tỉnh thức, ngoài đạo tỉnh thức ra, không được tìm thấy
trong các tôn giáo khác.
7. Looking at the Buddha’s birthday via aspects of watering, arousing, and
awakening Buddha nature in all living beings
When being born, the newborn baby Buddha said an immortal sentence
in history of humankind: “In heaven and on earth, only human is
respected and esteemed, all living beings have Buddha nature.”[65] The
human stressed here is a pronoun, both pointed to the Buddha and pointed to the
normal person, no god. Thus, this historical statement is only found in
Buddhism, apart from Buddhism, it has not been found in other religions.
Theo
tư tưởng của đạo Phật, Phật tính trong con người và trong chúng sinh đều bình đẳng
như nhau. Ở thánh Phật tánh không tăng, và ở phàm Phật tánh không giảm. Quá
trình tu tập là quá trình để tự mình làm Phật tánh của mình sáng dần ra, là quá
trình nhận diện và chuyển hóa vô minh, phiền não, và khổ đau thành minh, an vui
và hạnh phúc bằng cách thực hành và áp dụng những lời nói thiện, ý nghĩ thiện,
và việc làm thiện vào trong đời sống hằng ngày của mình để đem lại an vui và hạnh
phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay cuộc đời này.
According to Buddhist thought, Buddha nature in human and in living
beings is the same equality. In a sainted person, Buddha nature does not
increase, and in a normal person, Buddha nature does not decrease. The process
of cultivation which is the process of oneself can make one’s Buddha nature
brighter is the process of recognizing and transforming ignorance, defilements,
and suffering into lucidity, peacefulness, and happiness by practicing and
applying good speeches, good thoughts, and good actions into one’s daily life
to bring peaceful joy and happiness to oneself and to other people right in the
present life.
Bằng
phương pháp khơi dậy, đánh thức và tưới tẩm Phật tánh của tất cả chúng sanh, đức
Phật quán chiếu và đưa ra những ví dụ sinh động và cụ thể như sau: “Có các chúng sanh có nhiều bụi phiền não
trong tâm, có ít bụi phiền não trong tâm, và không có bụi phiền não trong tâm.
Cũng vậy, có các loại sen hồng, sen đỏ, và sen trắng đang mọc trong nước, lớn
lên trong nước, vươn ngang mặt nước, và vượt ra khỏi mặt nước, song qua quá
trình mọc và sống trong ao nước, tất cả các loại hoa sen đều lần lượt nở hoa
tươi tốt.”[66]
By the methods of arousing, awakening, and watering all living
beings’ Buddha nature, the Buddha contemplated and brought out vivid and
specific examples as follows: “There are
living beings with much dust of defilement in mind, with less defilement dust
in mind, and without defilement dust in mind. Likewise, there are kinds of the
pink lotuses, red lotuses, and white lotuses, growing in water, growing up in
water, reaching across the surface of water, and reaching beyond the surface of
water, but through the process of growing and living in a pond, all kinds of
lotuses gradually bloom freshly.”[67]
Trong
Kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Thảo dụ thứ V,[68] đức Phật đưa ra các hình ảnh
ẩn dụ của một trận mưa, cây lớn hút nước mưa nhiều, cây vừa vừa hút nước mưa vừa
vừa, cây nhỏ hút nước mưa ít; song, qua quá trình hút nước, tất cả các loại cây
lớn, cây vừa, và cây nhỏ đều trở nên xanh tốt. Cũng vậy, có các chúng sanh có
nhiều trí tuệ, có các chúng sanh có trí tuệ vừa vừa, và có các chúng sanh có ít
trí tuệ;
In the Lotus Sutra, the Parable of the Herbs, Chapter V,[69] the
Buddha brought out the metaphoric images of a rain, big trees absorb much
rainwater, moderate trees absorb moderate rainwater, small trees absorb a
little rainwater; however, through the processes of absorbing water, all kinds
of big, moderate, and small trees get fresh and verdant. Likewise, there are
living beings with much wisdom, there are living beings with moderate wisdom,
there are living beings with a little wisdom;
song
qua quá trình đủ duyên tiếp thu, học hỏi, áp dụng, và hành trì Phật pháp vào đời
sống hằng ngày, tất cả các loại chúng sanh đó đều thấm nhuần Phật pháp và dần dần
đem lại an lạc và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay tại thế gian này.
however, through the processes of having good opportunity to
acquire, to learn, to apply, and to practice the Buddhadharma in their daily lives, all kinds of living beings are
imbued with the Buddhadharma and gradually bring peacefulness and happiness to
themselves and to other people right in the present life.
8.
Nhìn
Phật đản qua khía cạnh bình đẳng
Bình đẳng là
một âm tiếng Hán Việt; bình có nghĩa
là an bình, hòa bình, bằng phẳng, đồng đều, bao dung, rộng lượng, đón nhận, tiếp
nhận, chấp nhận …; đẳng có nghĩa là
sai khác, sai biệt, khác biệt, không giống nhau, không kỳ thị…
8. Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of equality
Bình đẳng is a Sino-Vietnamese word; bình means tranquility, peace,
flatness, alikeness, tolerance, generosity, welcome, reception, acceptance,
etc.; đẳng means difference,
variety, discrepancy, dissimilarity, non-discrimination, etc.
Vậy,
bình đẳng có nghĩa là chấp nhận sự
khác nhau với tâm bao dung, rộng lượng, không kỳ thị, và không chống trái. Nó
không những bao hàm những ý nghĩa tình thương, tình huynh đệ, tình đồng loại,
hòa hợp, đoàn kết, che chở, bảo hộ, tha thứ…, mà còn bao hàm những ý nghĩa
không kỳ thị, không phân biệt, và chấp nhận sự khác biệt. Ngược với Bình đẳng là bất bình đẳng; bất bình đẳng có nghĩa là kỳ thị, phân biệt, phân
chia, không chấp nhận sự khác biệt…
Thus, bình đẳng means
acceptance of difference with the heart of tolerance, generosity,
non-discrimination, and non-contrariness. It not only implies the meanings of
love, brother/sisterhood, fellow-creature, harmony, solidarity, defense,
protection, forgiveness, etc., but also those of non-discrimination,
non-distinction, and acceptance of differentiation. Contrariness to equality is inequality; inequality means discrimination,
differentiation, division, non-acceptance of difference, etc.
Chúng
ta biết đạo Phật có mặt trên thế gian này gần ba nghìn năm; thời gian trước đạo
Phật, sau đạo Phật, và cho tới bây giờ, trong xã hội Ấn Độ, hầu hết người dân Ấn
theo Ấn giáo (Hinduism) hay Bà La Môn
giáo (Brahmanism), được chia thành 4
giai cấp khác nhau rõ rệt; sự phân giai cấp của người Ấn ngày xưa có thể thấm
vào máu thịt của họ không dễ mà thay đổi; tuy nhiên, sự phân chia giai cấp của
người Ấn ngày nay có phần thay đổi tư tưởng và cái nhìn của họ, nhưng không nhiều
kể từ khi người Ấn có cơ hội mở cửa và tiếp xúc với thế giới bên ngoài.
As we know Buddhism has been present in the world for nearly three
thousand years; time before Buddhism, time after Buddhism, and until now, in
Indian society, most of Indian people follow Hinduism or Brahmanism, divided
into four obviously different castes; division of ancient Indian castes which
can be absorbed into their flesh and blood is not easy to change; however, the
division of Indian castes today has a part of changing their ideas and views,
but not many since when Indian people have had the opportunity to open the door
and to contact with the world outside.
Theo
luật Mã Nỗ (Mānu)
của Bà La Môn giáo (Brahmanism), Ấn
giáo được chia làm 4 giai cấp[70] khác nhau do đấng Phạm
thiên (Brahma) tạo ra:
a. Giai cấp tu sĩ tế lễ Bà La Môn (Brahman)
b. Giai cấp dũng sĩ Sát Đế Lợi (Ksatriya)
c. Giai cấp buôn bán Phệ Xá (Vaisya), và
d.
Giai cấp lao động thấp kém Thủ Đà La (Sudra)
According to Mānu rules of Brahmanism, Hinduism is divided
into the four different castes[71] created
by a Brahma:
a. Brahman sacrificial priest caste
b. Ksatriya warrior caste
c. Vaisya merchant caste
d. Sudra low labor caste
Bà La Môn (Brahman)
có nghĩa là thanh tịnh và tịnh hạnh. Những người theo giai cấp này là những
vị đạo Sĩ, được sanh ra từ miệng Phạm
thiên, đứng vị trí thứ nhứt trong xã hội, chăm lo nghi lễ, tế tự, cúng tế,
giao tiếp thần linh, và nắm giữ quyền lực thần quyền.
Brahman means purity and virtue. Those who follow this caste are priests
or hermits, were born from the Brahma’s mouth, are in the first position in
society, take care of rituals, sacrifice, prayers, communicate deities, and
hold divine power.
Sát Đế Lợi
(Ksatriya) có nghĩa là mạnh mẽ và hùng mạnh.
Những người theo giai cấp này là những dũng sĩ, quan quyền và vua chúa, được
sanh ra từ vai Phạm thiên, đứng vị
trí thứ hai trong xã hội, chăm lo việc nắm giữ quyền lực chính trị để giữ gìn đất
nước, dòng dõi vua chúa, và chống giặc nội ngoại xâm.
Ksatriya means strength and power. Those who
follow this caste are warriors, mandarins, and kings, were born from the
Brahma’s shoulder, are in the second position in society, take care of holding
the political power to guard the country, lineage of kings, and to resist the
enemies of the internal and foreign invasion.
Phệ Xá (Vaisya)
có nghĩa là buôn bán, trồng trọt, chăn nuôi... Những người theo giai cấp
này là những người buôn bán, nông dân, công dân… được sanh ra từ hông Phạm thiên, đứng vị trí thứ ba
trong xã hội, chuyên lo việc mua bán, đổi chác, làm rẫy, làm ruộng, làm vườn… tạo
ra tài sản, và phục dịch cho hai giai cấp trên.
Vaisya means trading, cultivation, breeding,
etc. Those who follow this caste are merchants, farmers, workers, etc., were
born from the Brahma’s hip, are in the third position in society, take care of
buying, selling, exchanging, making mountain field, growing rice paddy, doing
the garden, etc., create properties, and serve the two above castes.
Thủ Đà La
(Sudra)
có nghĩa là bần cùng, thấp kém, và hạ tiện. Những người theo giai cấp này là những
đầy tớ, tôi tớ, nô lệ… được sanh ra từ bàn chân Phạm thiên, đứng vị trí thứ tư trong xã hội, luôn rụt rè, sợ sệt,
cúi đầu, khép nép…, và phục dịch cho 3 giai cấp trên.
Sudra means poverty, low, and vileness. Those
who follow this caste are servants, subordinates, slaves, were born from the
Brahma’s feet, are in the fourth position in society, are always timid,
fearful, bowing down, subservient, and serve the three above castes.
Bốn
giai cấp này được luật Mã Nỗ (Mānu)
phân chia rõ ràng. Tuy nhiên, ngoài bốn giai cấp ấy ra, xưa cũng như nay xã hội
Ấn Độ vẫn còn có hạng người cùng đinh không liệt kê vào bốn giai cấp trên; họ
là hạng người bần cùng trong xã hội, họ không có nhà để ở, họ ngủ ở vỉa hè,
trên lòng lề đường, họ không có quần áo để che thân, không có cơm để ăn, không
có nước sạch để uống, v. v. và v. v. Ai cho gì thì họ ăn cái nấy. Họ dễ bị chết
cóng vào mùa đông, chết nóng vào mùa hè, chết đói vào mùa xuân, mùa hạ, mùa thu
và mùa đông. Hạng người cùng đinh (Dalits)[72] này không được liệt kê
trong bốn giai cấp được thảo luận ở trên.
These four castes are clearly divided by Mānu
rules. However, in addition
to the four castes, anciently as well as presently, Indian society has still
had a kind of Dalits, are not listed in the four above castes; they are kinds
of untouchables or impoverished people in society, they do not have any house
to live, they sleep on the sidewalk, on the roadsides, they do not have clothes
to cover their bodies, they do not have cooked rice to eat, do not have clean
water to drink, etc. They can eat some food and drink which are given to them.
They easily freeze to death in the winter, die of heat in the summer, starve to
death in the spring, in the fall, and in the winter. Kinds of these Dalits[73] are not
listed in the four above discussed castes.
Thật
vậy, theo Luật Mã Nỗ (Manu), người
theo giai cấp nào thì sinh hoạt theo giai cấp nấy. Ví dụ, người theo giai cấp
Bà La Môn (Brahman),
thì họ chỉ sinh hoạt và giao tiếp với những người cùng giai cấp của họ mà thôi.
Người theo giai cấp dũng sĩ (Sát Đế Lợi/
Ksatriya), thì họ chỉ sinh hoạt và giao tiếp
với những người cùng giai cấp của họ mà thôi. Người theo giai cấp buôn bán (Phệ Xá/ Vaisya), thì họ chỉ sinh hoạt và giao tiếp với
những người cùng giai cấp của họ mà thôi. Người theo giai cấp lao động thấp kém
(Thủ Đà La/ Sudra), thì họ chỉ sinh hoạt và
giao tiếp với những người cùng giai cấp của họ mà thôi. Họ rất hạn chế trong việc
làm ăn, giao tiếp, đặc biệt trong việc cưới hỏi và hôn nhân ngoài giai cấp.
Indeed, according to the Manu
rules, people only work with their caste they follow. For example, people who
follow Brahman caste only work and
communicate with people of their same caste. People who follow warrior caste
only work and communicate with people of their same caste. People who follow
trading caste only work and communicate with people of their same caste. People
who follow low labor caste only work and communicate with people of their same
caste. They are very limited in business, communication, especially in wedding
and marriage outside caste.
Khi
gặp những người theo hai giai cấp Bà La Môn (Brahman) và Sát Đế Lợi (Ksatriya),
thì những người theo hai giai cấp Phệ Xá (Vaisya)
và Thủ Đà La (Sudra)
phải khiêm nhường, khúm núm, và tránh né. Những ai không tuân thủ vào Luật Mã-nỗ
này thì họ sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc. Do vậy, những người theo hai giai cấp
dưới không hoặc hiếm có cơ hội học tập, phấn đấu, tiến thân, thành tài như hai
giai cấp trên. Những lý do đó đưa tới bất bình đẳng trong xã hội tạo ra các cá
nhân bất ổn, gia đình bất an, và xã hội xáo trộn không ít vì sự phân chia giai
cấp, kỳ thị giàu nghèo, màu da, chủng tộc, tôn giáo, vân vân…
When meeting people follow the two castes of Brahman and Ksatriya,
people following the two castes of Vaisya
and Sudra have to be humble,
subservient, and avoidable. Those who do not comply with the Manu rules will be
severely punished. Thus, people who follow the two low castes do not or rarely
have an opportunity to learn, to strive, to succeed in their lives, to become
the talented ones like the two above castes. The reasons that lead to
inequality in society cause instable individuals, insecure families, and
disturbed society not little because of caste division, discrimination of rich
and poor people, skin color, race, religion, etc.
Hơn
nữa, theo quan điểm Bà La Môn giáo (Brahmanism),
Bà La Môn cho rằng những ai theo giai cấp Bà La Môn (Brahman), thì họ là người giai cấp
Bà La Môn suốt đời; những ai theo giai cấp dũng sĩ (Sát Đế Lợi/ Ksatriya),
thì họ là người giai cấp dũng sĩ suốt đời; những ai theo giai cấp buôn bán (Phệ Xá/ Vaisya), thì họ là người giai cấp buôn bán suốt
đời; những ai theo giai cấp lao động thấp kém (Thủ Đà La/ Sudra), thì họ là người giai cấp lao động thấp
kém suốt đời.
Moreover, according to viewpoints of Brahmanism, Brahman has
believed that those who follow Brahman caste
are people of the Brahman caste
forever; those who follow warrior caste are people of the warrior caste (Ksatriya)
forever; those who follow trading caste (Vaisya) are people of the trading caste forever; those who follow
low labor caste (Sudra) are people of the
low labor caste forever.
Theo
quan điểm Phật giáo, đạo Phật đề cao và tôn trọng mọi người đều có Phật tính,
bình đẳng không có giai cấp trong giọt máu cùng đỏ và trong giọt nước mắt cùng
mặn. Đạo Phật không chấp nhận các quan điểm của Bà La Môn giáo (Brahmanism),
chỉ chấp nhận các nghiệp thân, nghiệp khẩu, và nghiệp ý do họ tạo tác ra ở đời
trước, đời này, hoặc ở đời sau mà thôi.
According to its viewpoints, Buddhism dignifies and respects
everyone with Buddha nature and equality without caste in the same blood and in
the same saltiness. Buddhism does not accept the viewpoints of Brahmanism, it only accepts their bodily
actions (Karma), verbal actions, and
mental actions created by them in the previous life, the present life, or in
the future life.
Nếu
bạn là con người có dòng máu cùng đỏ, giọt nước mắt cùng mặn, bạn có phúc sinh
ra trong một gia đình giàu có của Bà La Môn hay của Sát Đế Lợi. Nếu bạn sống
trong gia đình ấy, bạn không biết làm những điều phúc thiện, sát sinh hại vật,
khinh chê, và khinh thường người khác, thì hiện tại phúc đức của bạn giảm dần,
bạn sẽ bị nhiều người oán trách, và tương lai, chắc chắn bạn sẽ bị tái sinh vào
trong gia đình nghèo khổ.
If you are people with the same red bloodstream, the same salty
teardrop, you are blessed to be born in a rich family of Brahman or in that of Ksatriya. If you live in that
family, you do not know to do the virtuous and wholesome things, kill living
beings, despise, and disdain other people, in the present your virtuous
blessings decreases, you will be reprimanded, and in the future, you will
certainly be reborn in a needy family.
Ngược
lại, nếu bạn là người thiếu phúc đức và thiếu may mắn, bạn sinh ra trong một
gia đình Phệ Sá (Vaisya)
hay Thủ Đà La (Sudra)
nghèo khổ, nhưng bạn có duyên lành tiếp xúc với ánh sáng giáo lý Phật đà, bạn nỗ
lực tu học Phật pháp thật giỏi, bạn có thể trở thành người đạo đức và gương mẫu
trong gia đình và trong xã hội.
In contrast, if you are people lacking virtuous blessings and
luckiness, you were born in a needy Sudra
or Vaisya family, but you have a good
opportunity to contact with the light of the Buddha’s teachings, you make an
effort to cultivate and to learn the Buddhadharma
so well, you can become people of virtue and exemplariness in your family and
society.
Mặc
dầu bạn sinh trong một gia đình nghèo khổ, phương tiện vật chất và tinh thần đối
với bạn không dễ dàng thành tựu và vươn lên trong cuộc sống, nhưng nhờ thân tâm
nỗ lực, hướng thượng và hướng thiện, bạn có thể vun trồng và tích lũy công đức
bằng cách giúp người nghèo khổ, bố thí, và phóng sinh. Khi bạn hiểu và thực
hành được như vậy, trong hiện tại, phúc đức của bạn tăng trưởng, gia đình của bạn
hạnh phúc, trong tương lai, bạn và gia đình của bạn được nhiều người tôn trọng
và quý kính. Nếu tái sinh làm người, bạn sẽ sinh trong gia đình giàu có, an
vui, và hạnh phúc trong Phật pháp.
Although you were in the needy family, means of materials and
spirit to you is not easy to achieve and to rise up in your life, thanks to
your bodily and mental effort, leading to supper and to good, you can cultivate
and accumulate merit by helping the needy, giving alms, and releasing animals.
When you understand and practice like this, in the present, your blessings and
virtue increase, your family gets happy, in the future, you and your family are
respected and esteemed. If being reborn to make human being, you will be born
in a rich, peaceful, and happy family of the Buddhadharma.
Trong
thời đức Phật, cách đây hơn 2600 năm, có những vị đệ tử của Phật như Tôn giả luật sư
Ưu Ba Li (Upali),[74] người thợ hớt tóc, giai cấp
hạ tiện; Tôn giả Sunita (Ni-đề),[75] người gánh phân, không được
liệt kê vào bốn giai cấp trên. Hoặc khoảng cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, có một
vị Phật tử rất nổi tiếng tên là tiến sĩ Ambedka,[76]
người thuộc giai cấp hạ tiện; cả ba người đều là người Ấn Độ sống cách nhau
hơn nghìn năm. Song cả ba người có đủ duyên lành học, hiểu, áp dụng, và thực
hành giáo pháp của đức Thế Tôn vào đời sống hằng ngày, đều trở thành những người
Phật tử thuần thành, có khả năng giúp cho đạo Pháp và dân tộc, cho tự thân và
tha nhân sống an vui và hạnh phúc ngay tại thế gian này.
In the Buddha’s time, for over 2600 years ago, there were the Buddha’s
disciples such as the Honored Elder Upali
Attorney,[77]
a barber, an untouchable caste; the Honored Elder Sunita,[78] a dung–collector,
was not listed in the above four castes. Or about the end of the 18th
century, at the beginning of the 19th century, there was a very
famous Buddhist named Dr. Ambedka,[79] a
person of an untouchable caste; all these three people that were Indian lived
over thousand years ago. However, all the three people that had good conditions
to learn, to understand, to apply, and to practice the Dharma of the
World-Honored One in their daily lives, became the devout Buddhists, had the
ability to help the Dharma path and the people, themselves and other people
live peacefully and happily right in this world.
Thực
vậy, đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Người sáng lập ra đạo Phật, có khả năng đem lại
bình đẳng, an vui, hạnh phúc, ánh sáng giác ngộ, từ bi, và trí huệ không những
cho xã hội Ấn Độ, mà còn cho cả thế giới nhân loại ngày nay.
Indeed, the Sakyamuni
Buddha, who founded Buddhism, had the ability to bring equality, peacefulness,
happiness, the light of enlightenment, loving-kindness, compassion, and wisdom
not only to Indian society, but also to the whole world of humankind today.
Theo
cái nhìn bình đẳng của đạo tỉnh thức, đạo Phật không bao giờ phân chia giai cấp
và không chấp nhận những người theo giai cấp Bà La Môn là hoàn toàn thông minh
và thanh tịnh; những người theo giai cấp Thủ Đà La (Sudra) hoàn toàn là ngu dốt và ô uế.
Thông minh hay không thông minh, thanh tịnh hay không thanh tịnh, giai cấp hay
không giai cấp đều do các hành động thiện và bất thiện của mình tạo tác mà hình
thành.
According to the equal vision of the awakening path, Buddhism has
never discriminated any caste and has not accepted people who followed the Brahman caste were wholly intelligent
and purified; who followed the Sudra
caste were fully ignorant and dirty. Intelligence or unintelligence, purity or
impurity, caste or non-caste, were created by their good actions and non-good
actions to form.
“Tự mình điều ác làm,
Tự mình làm nhiễm ô,
Tự mình ác không làm,
Tự mình làm thanh tịnh,
Thanh tịnh không thanh tịnh
Đều do tự chính mình
Không ai thanh tịnh ai.”
(Pháp
Cú, kệ 165)
“By oneself is evil
done;
By
oneself is one defiled.
By
oneself is evil left undone;
By
oneself is one made pure.
Purity
and impurity depend on oneself;
No
one can purify another.”
(Dhammapada,
Verse 165).
Sở
dĩ các giai cấp được phân chia như vậy là vì Bà La Môn giáo muốn thống trị
thiên hạ, muốn thiên hạ coi mình là trên hết, và bắt buộc mọi người phải tuân
thủ làm theo. Nếu ai không làm theo luật Mã-nỗ (Manu) thì họ sẽ bị khiển trách và trừng phạt; ngược lại, đạo Phật
hoàn toàn không đồng ý các quan điểm trên.
The reasons why castes have been divided thus are because Brahmanism wants to dominate people,
wants the latter to consider the former as the uppermost, and forces everyone
to obey and to follow. If those who do not follow the Manu rules would be reprimanded and punished; conversely, Buddhism
has entirely not agreed the above viewpoints.
Để
chứng minh tinh thần bình đẳng trong đạo Phật, Kinh Phật Tự Thuyết (Udàna), chương V, phẩm Trưởng Lão Sona thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddhaka Nikàya) ghi rõ: “…Ví như khi các con sông Hằng, sông Yamunà, sông Aciracati, sông Sarabhù, và sông Mahi chảy đến biển,
chúng liền bỏ tên họ trước, và sau này trở thành biển lớn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo!
Có những hạng người trong bốn giai cấp Sát Đế Lợi (Ksatriya),
Bà La Môn (Brahman),
Phệ Xá (Vaisya),
và Thủ Đà La (Sudra); Sau
khi từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia trong Pháp và Luật được Thế
Tôn tuyên bố sau này, chúng từ bỏ tên và họ của chúng trước, và sau trở thành
những đệ tử của đức Thế Tôn.”[80]
To prove the equal spirit of Buddhism, the Udàna Sutta, spoken by the Buddha himself, V,
the chapter of the Elder Sona
belonging to Khuddhaka Nikàya, states
clearly: “For example, when Ganga river, Yamunà river, Aciracati river, Sarabhù river, and Mahi river, flow to
the ocean, they immediately give up their names first, and later become the
open sea. Likewise, O Bhikkhus! There are kinds of people in the four castes of
Ksatriya, Brahman, Vaisya, and Sudra; After renouncing your
family, living beyond ties of your family, leaving home for your monastic lives
in his Dharma and moral rules (Vinaya) exclaimed by the World-Honored One later
on, you all abandon your names first, and later become the World-Honored One’s
disciples.”
Qua
đoạn trích dẫn trên đây, chúng ta thấy rằng trong giáo pháp của đức Thế Tôn và
trong đời sống sinh hoạt hằng ngày của Tăng đoàn không có giai cấp; ở điểm này,
tinh thần bình đẳng trong đạo Phật đã hiện ra rõ ràng. Thật vậy, dù các bạn đã
mang hàng trăm tộc họ khác nhau, dù các bạn là những người da trắng, da đen, da
vàng, và da đỏ, dù các bạn là những người không có cùng giai cấp và tôn giáo,
nhưng một khi có đủ duyên tu học và thực hành giáo pháp của đức Thế Tôn, các bạn
đều trở thành các đệ tử của Ngài, lần lượt nếm được pháp lạc, và tiến đến an lạc
và giải thoát như nhau.
Through the above quotations, we have found that in the Dharma of
the World-Honored One and in the Sangha’s daily activities lives there is not
any caste; at this point, the equal spirit of Buddhism has been manifested
clearly. Indeed, though you have brought hundreds of different clans and
surnames, though you are white, black, brown, and red people, though you do not
have the same caste and religion, once having sufficiently good opportunities
to cultivate, to learn, and to practice the Dharma of the World-Honored One,
you become his disciples, gradually enjoy the joyful Dharma, and reach to
peacefulness and freedom alike.
Chúng
ta đều biết ngược dòng thời gian cách đây hơn 26 thế kỷ qua, đức Phật Thích Ca
Mâu Ni, Người sáng lập ra đạo Phật, đạo tỉnh thức và giác ngộ, đem an lạc, hạnh
phúc, và bình đẳng cho mọi người và mọi giai cấp. Giáo pháp của đức Phật là
giáo pháp bình đẳng; đức Phật là bậc Thầy bình đẳng, vị Vua bình đẳng; sự phân
biệt và kỳ thị giai cấp và chủng tộc không bao giờ tìm thấy trong lời dạy của
Thầy. Thầy nhấn mạnh rằng:
We know that going back in time more than 26 centuries ago, the
Sakyamuni Buddha, who founded Buddhism, the path of awakening and enlightenment,
brought peacefulness, happiness, and equality to everyone and every caste. His
Dharma is the equal Dharma; He is the equal Teacher, the equal King;
distinction and discrimination between caste and race have never been found in
His teachings. He emphasized that:
“Không có giai cấp trong giọt máu cùng đỏ và trong giọt nước mắt cùng mặn. Không phải do sinh trưởng mà người này là cao quý. Không phải do sinh trưởng là người kia là hạ tiện. Chính do hành động thiện mà người này là cao quý. Chính do hành động bất thiện mà người kia là hạ tiện(Xem Sutta Nipàta-vasala Sutta).
Những ai có đủ duyên lành thực hành và áp dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày một cách chánh niệm và tỉnh giác, vững chãi và thảnh thơi, thì họ đều thưởng thức và nếm được pháp lạc như nhau ngay trong giờ phút hiện tại. Thực vậy, mọi người sinh ra trên hành tinh này, ai cũng có giọt nước mắt cùng mặn, giọt máu cùng đỏ, ai cũng sợ gươm đao, ham sống và sợ chết, và ai cũng muốn có đời sống an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay tại thế gian này.”[81]
Những ai có đủ duyên lành thực hành và áp dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày một cách chánh niệm và tỉnh giác, vững chãi và thảnh thơi, thì họ đều thưởng thức và nếm được pháp lạc như nhau ngay trong giờ phút hiện tại. Thực vậy, mọi người sinh ra trên hành tinh này, ai cũng có giọt nước mắt cùng mặn, giọt máu cùng đỏ, ai cũng sợ gươm đao, ham sống và sợ chết, và ai cũng muốn có đời sống an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay tại thế gian này.”[81]
“There is not any caste in the same red blood drops and in the same salty teardrops. Not due to one's birth and growth is noble. Not due to one's birth and growth is ignoble. It is due to wholsesome doing that one is noble. It is due to unwholesome doing that one is ignoble.(See Sutta Nipàta-vasala Sutta).
Those who have sufficiently good opportunity to practice and to apply the Buddhadharma in their daily lives mindfully and attentively, steadily and carefreely enjoy and taste the joyful Dharma alike right in the present hours and minutes. In fact, everyone is born on earth, they also have the same salty teardrops, the same red blood drops, they are also afraid of sword, desire to live, and fear to die, and they also want to lead their peaceful and happy lives to themselves and to other people right in the present life.”[82]
Those who have sufficiently good opportunity to practice and to apply the Buddhadharma in their daily lives mindfully and attentively, steadily and carefreely enjoy and taste the joyful Dharma alike right in the present hours and minutes. In fact, everyone is born on earth, they also have the same salty teardrops, the same red blood drops, they are also afraid of sword, desire to live, and fear to die, and they also want to lead their peaceful and happy lives to themselves and to other people right in the present life.”[82]
Với
những ý nghĩa thiết thực nêu trên, chúng ta biết trong Tăng đoàn của đạo Phật,
và trong giáo pháp của đức Phật không có giai cấp. Trong tinh thần bình đẳng của
đạo Phật không bao giờ có sự kỳ thị chủng tộc và phân chia giai cấp; hễ những
ai có đủ duyên tu tập, thực hành lời dạy của đức Phật, không làm các điều ác,
làm các việc lành, giữ thân tâm thanh tịnh và an lạc, sống đời sống chánh niệm
và tỉnh giác trong đời sống hằng ngày của mình, thì họ là những người có khả
năng đem lại những hoa trái an vui và hạnh phúc đích thực cho số đông trên khắp
hành tinh này.
With the aforementioned practical meanings, we know that in the
Sangha of Buddhism, and in the Dharma of the Buddha there is not any caste. In
the equal spirit of Buddhism there are never discrimination of race and
division of caste; those who have enough good conditions to cultivate, to
practice the Buddha’s teachings, not to do evil things, to do good things, to
keep their minds purified and peaceful, to lead their lives of right
mindfulness and awareness in their daily lives, are people having the ability
to bring flowers and fruits of authentic joy and happiness to the many all over
this planet.
Để
hiểu rõ và xác nhận những điều thảo luận ở trên, học lịch sử Phật giáo, chúng
ta biết trong đạo Phật có rất nhiều hạng người ở nhiều giai cấp và tôn giáo
khác nhau; trước khi là một người cư sĩ, Tôn giả Ni Đề (Sunita) là người hốt phân không thuộc bốn giai cấp trên; Tôn giả Ưu
ba li (Upali) là người thợ hớt tóc ở
giai cấp thấp thứ tư (Sudra); Tôn giả Thuần Đà (Chunda) là người thợ rèn ở giai cấp thứ ba (Vaisya); Tôn giả A Nan Đa (Ananda)
là người giai cấp dũng sĩ (Ksatriya);
Tôn giả Xá lợi Phất (Sariputta) và
Tôn giả Mục Kiền Liên (Mahà Moggallàna)
là những người giai cấp Bà-la-môn (Brahman);
Tôn giả Vô Não (Angulimala) là vị tướng
cướp khét tiếng; Am Ba Ba Li (Ambapàli) là một kỉ nữ hạng sang, v. v….. Song
qua quá trình tiếp xúc, học hỏi, áp dụng, và hành trì Phật pháp, chư vị đều trở
thành những người đệ tử an vui và hạnh phúc đích thực của đức Thế Tôn.
To clearly understand and to confirm the above discussed things,
learning the history of Buddhism, we know that in Buddhism there are very many
kinds of people in many different castes and religions; before being a lay
person, the Elder Sunita was a
dung-collector, not belonging to the four above castes; the Elder Upali was a hair-cutter of the fourth caste
(Sudra); the Elder Chunda was a smith of the third caste (Vaisya); the Elder Ananda was a person of warrior caste; the Elder Sariputta and the Maha Moggallàna Elder were people of Brahman caste; the Elder Angulimala
was a notorious chief bandit; Ms. Ambapàli
was a courtesan, etc. However, through the process of contacting, learning,
applying, and practicing the Buddhadharma,
they became authentically peaceful and happy disciples of the World-Honored
One.
Cũng
vậy, các loại nước sạch, nước dơ, nước ngọt, nước lợ … của trăm ngàn con sông,
suối, ao, hồ… chảy ra biển cả đều trở thành nước mặn. Tất cả các hạng người ở
nhiều giai cấp và chủng tộc khác nhau, song họ có đủ duyên theo Phật, nghe
pháp, thực hành lời Phật dạy, họ có khả năng thưởng thức và nếm được pháp lạc
ngay trong đời sống hằng ngày, và sống đời sống an vui và giải thoát đích thực
cho tự thân và cho tha nhân ngay tại thế gian này.
Likewise, kinds of clean water, unclean water, fresh water,
brackish water, etc., of hundreds and thousands of rivers, springs, ponds,
lakes, etc., flowing into the ocean become salty water. All kinds of people
come from many different castes and races, however, they have enough good
opportunity to follow the Buddha, to listen to his Dharma, to practice his
teachings, they have to ability to enjoy and to taste the joyful Dharma right
in their daily lives, and lead their lives of authentic peacefulness and
freedom for themselves and other people right in this world.
Thật
vậy, tinh thần bình đẳng của đạo Phật,
đã được thấm nhuần qua các triều đại vua chúa, dòng dõi, thế hệ, và giai cấp
khác nhau, đã được truyền bá không những ở trong nước Ấn Độ, mà còn ở ngoài nước
khác như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, Lào, Thái, Úc, Pháp, Đức, Mỹ…Tinh thần
đó rất thiết thực và giá trị vượt thoát biên cương, thời gian, và không
gian.
Indeed, the equal spirit of Buddhism, which has been penetrated
through the reigns of kings, lineages, generations, and various castes, has
been spread not only in India, but also in other countries such as Japan, South
Korea, Vietnam, Laos, Thailand, Australia, France, Germany, United States of
America, etc. That spirit, which is very practical and valuable, is beyond
boundary, time, and space.
Trên đây, tinh thần bình đẳng đã được
trình bày xong; tiếp đến, người viết tiếp tục trình bày và tìm hiểu nhìn Phật đản qua khía cạnh hòa bình.
The spirit of
equality has been above presented; next, the writer continues to present and to
learn about looking at Buddha’s Birthday
through peace aspects.
Tiếp
theo phần số 2 vừa thảo luận ở trên, phần số 9 sẽ được trình bày cho chúng ta
biết cái nhìn Phật đản qua các khía cạnh ẩn dụ, huyền thoại, nhấn mạnh…, đặc biệt
qua khía cạnh hòa bình bằng cách tu tập và thực hành giáo pháp của đức Thế Tôn.
Con
số 7 và con số 9 trong đạo Phật được đề cập và nhấn mạnh rất nhiều; trong bài
viết này, người viết chỉ thảo luận hai khía cạnh đặc thù có liên quan tới hai
con số này mà thôi, đó là khía cạnh thời
gian và không gian.
9. Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of peace
Next to the above discussed second section, the ninth section will
be presented us with looking at the Buddha’s Birthday through aspects of
metaphor, myth, emphasis, etc., especially through aspects of peace by
cultivating and practicing the Dharma of the World-honored One.
The number 7 and number 9
in Buddhism are mentioned and emphasized very much. In this writing, the writer
only discusses the two specific aspects related to these two numbers, which are
the aspects of time and space.
Về khía cạnh thời gian, con số 7 gồm
có quá khứ – hôm qua (1), hiện tại – ngày nay (2), và vị lai – ngày mai (3). Về khía cạnh không gian, con số 7 gồm có phương Đông (4), phương Tây (5), phương Nam (6), phương
Bắc (7); con số 9 gồm có hai phương
nữa, đó là phương Trên (8) và phương Dưới (9).
About the aspect of time,
the figure 7 consists of the past – yesterday (1), the present – today (2), and
the future – tomorrow (3). About the aspect of space, the figure 7 consists of the East (4), the West (5), the
South (6), the North (7); the figure 9 consists of the two additional
directions, which are the Above (8) and the Below (9).
Phương Trên
chỉ cho thời gian, phương Dưới chỉ
cho không gian; phương Trên có nghĩa
là phương hướng thượng, hướng tới việc tu học, chuyển hóa phiền não, giác ngộ,
và giải thoát để làm lợi ích cho tự thân; và phương Dưới có nghĩa là phương hướng tới việc hoằng pháp để làm lợi
ích cho tha nhân (trên thỉnh cầu Phật
pháp để tu học, dưới hóa độ chúng sanh).
The Above indicates time, the Below indicates space; the
Above means the upper direction, leading to cultivation, transforming
defilements, obtaining enlightenment, and deliverance to benefit oneself; and the Below means direction of leading to
preaching the Dharma to benefit other people.
Về
thời gian, trong quá khứ, hiện tại,
và vị lai, tức ngày hôm qua, ngày nay và ngày mai; về không gian, ở phương Đông, phương Tây, phương Nam, phương Bắc,
phương Trên, và phương Dưới; hay ở Châu Á, Châu Âu, Châu Úc, Châu Phi, và Châu
Mỹ, bất cứ thời gian nào hay nơi nào đạo
Phật được truyền bá, thì thời gian đó hay nơi đó dân chúng địa phương sống hiền ra và thiện ra nếu
mọi người cùng nhau học, hiểu, áp dụng, và thực hành Phật pháp vào trong đời sống
hàng ngày.
About time, in the past,
the present, and in the future, that is yesterday, today, and tomorrow; about space, in the East, the South, the
North, the Above, and in the Bellow; or in Asia, Europe, Australia, Africa, and
in America, wherever or wherever Buddhism has been spread, at that time or there
the local people live more gently and better if they learn, understand, apply, and practice the Buddhadharma
together in their daily lives.
Xưa và nay, đạo Phật không bao giờ có chiến tranh
tôn giáo bởi vì giáo pháp của đức Thế Tôn là giáo pháp tỉnh thức, giác ngộ, hòa
bình, từ bi, và trí tuệ, không bao giờ dung chứa các hạt giống hận thù, tham,
sân, si, sầu bi, khổ, ưu não... Giáo pháp không bao giờ khuyên người giết, bảo
người giết, và thấy người khác giết để vui mừng theo. Ngược lại, giáo pháp
khuyên người làm lành, bảo người làm lành, và thấy người khác làm lành để vui mừng
theo trong pháp học, pháp hành, pháp hiểu, pháp thí, và pháp lạc; đây là những
điểm đặc thù của Phật giáo mà các tôn giáo bạn hiếm thấy hoặc không được tìm thấy.
Anciently as well as presently, Buddhism
has never had a religious war because the Dharma of the World-Honored One is
the Dharma of awakening, enlightenment, peace, loving-kindness, compassion, and
wisdom, having never contained the seeds of hatred, lust, anger, delusion,
sorrow, suffering, grief, etc. The Dharma has never advised people to kill,
told them to kill, and seen other people rejoice together. In contrast, the
Dharma has advised people to do good, told them to do good, and seen other
people do good rejoice together in Dharma learning, Dharma practice, Dharma
understanding, Dharma giving, and Dharma joy; these are the specific
characteristics of Buddhism that other religions has rarely or not found.
Qua
các ý nghĩa được đề cập ở trên, chúng ta biết rằng đạo Phật là con đường hòa bình, là tôn giáo hòa bình, luôn luôn dạy người
ta ý thức thực hành những lời nói hòa bình, ý nghĩ hòa bình, và các hành động
hòa bình ở khắp nơi và khắp chốn để đem lại an lạc và hạnh phúc đích thực cho tự
thân và cho tha nhân ngay trong cuộc đời này.
Through the above mentioned meanings, we know that Buddhism, which is the path of peace, is
religion of peace, always teaches people to be aware of practicing speeches of
peace, thoughts of peace, and actions of peace everywhere and every place to
bring authentic peacefulness and happiness to themselves and to other people
right in the present life.
Thực
vậy, dù bạn là Phật tử hay không phải Phật tử, dù bạn theo đạo Phật hay không
theo đạo Phật, nếu bạn khéo ứng dụng và thực hành những lời dạy hòa bình – Phật
pháp vào trong đời sống hằng ngày của bạn bằng cách ý thức bảo vệ và tôn trọng
sự sống của mọi loài, nuôi dưỡng tâm từ bi đối với chúng sanh, khởi tâm bố thí,
và cứu giúp cả vật chất lẫn tinh thần cho số đông, tôn trọng và bảo vệ hạnh
phúc cho gia đình mình và gia đình người khác, nói những điều lợi ích cho số
đông, bảo vệ thân tâm an lạc và minh mẫn, v. v… và v. v….
Indeed, whether you are Buddhists or not Buddhists, whether you
follow Buddhism or do not follow Buddhism, if you skillfully apply and practice
the teachings of peace – the Buddhadharma
in your daily life by being aware of protecting and respecting lives of living
things and living beings, nurturing your heart of loving-kindness and happiness
toward them, arousing the mind of alms-giving, and helping both materials and
spirit to the many, respecting and protecting happiness for your family and
other people’s families, saying the benefits to the many, protecting your
peaceful and lucid body, mind, and so on.
Khi
hiểu và thực hành được như vậy, bạn là hành giả và sứ giả hòa bình, và có khả
năng hiến tặng món quà tu tập và hành trì, an vui và hạnh phúc cho số đông trên
khắp hành tinh này.
When understanding and practicing like this, you are practitioner
and messenger of peace, and have the ability to dedicate your gifts of
cultivation and practice, peacefulness and happiness to the many all over this
planet.
Hơn
nữa, dù bạn theo Phật giáo Nam tông hoặc Bắc tông; dù bạn theo Thiền tông, Tịnh
độ tông, hay Mật tông, bạn vẫn sống bình an trong cuộc sống, và hành trì đúng
hướng đi và pháp môn tu tập thích hợp mà bạn đã chọn. Tuy nhiên, các vị xuất sĩ
và cư sĩ đều tôn trọng, quý kính, và xem đức Phật, giáo Pháp, và Tăng đoàn là
những nơi nương tựa tâm linh an bình và vững chãi nhất của đời mình.
Moreover, whether you follow Theravada
Buddhism or Mahayana Buddhism;
whether you follow Zen Buddhism, Pure Land Buddhism, or Tantric Buddhism, you
still live peacefully in life, and practice the path of going rightly and the
Dharma door of appropriate cultivation chosen by you. Monastics and lay people
respect, esteem, and consider the Buddha, the Dharma, and Sangha as the places
of the most peaceful and steady spirit of their lives.
Xưa
cũng như nay, đạo Phật không bao giờ gây ra một chiến tranh tôn giáo, luôn tôn
trọng tinh thần bất bạo động, và luôn xây dựng tinh thần từ bi, trí tuệ, tình
thương, và hòa bình cho pháp giới chúng sanh muôn loài. Điều tỉnh thức thứ nhất trong đạo Phật luôn đề cao và tôn trọng tình
thương và sự sống hòa bình cho tự thân và cho tha nhân, khuyên dạy mọi người chớ
giết, chớ bảo người giết, và chớ thấy người giết chúng sinh mà mình vui mừng
theo. Những điểm đặc thù này chỉ được tìm thấy trong đạo Phật, hiếm được
tìm thấy trong các tôn giáo bạn.
In the past time as well as the present time, Buddhism, which has
never caused any war, always respects the non-violent spirit, and always builds
the spirit of loving-kindness, compassion, wisdom, love, and peace for living
things and living beings. The awakening thing in Buddhism is always promoted
and respected love and life of peace for oneself and for other people, it
advises everyone not to kill, not to tell them to kill, and not to see them
kill living beings we are delighted with their unwholesome actions. These
specific characteristics are only found in Buddhism, they are rarely found in
other religions.
Đến
đây, con số 7 và con số 9 trong đạo Phật hàm chứa các ý nghĩa vừa được trình
bày ở trên; tiếp đến, xin mời quý vị tiếp tục tìm hiểu ý nghĩa rồng; rồng chỉ là con vật tưởng tượng và tượng trưng, không có thật. Tuy
nhiên, để nhấn mạnh sự ra đời của đức Phật một cách linh thiêng, mầu nhiệm, và
tôn kính, người ta mới đề cập tới rồng; rồng khác với rắn; rắn là loài bò sát
không chân, không vẩy, không mồng, không thể bay và phun lửa được.
Coming here, the number 7 and the number 9 in Buddhism imply the
above presented meanings; next, you are cordially invited to continue to learn
about the meanings of dragon; the dragon is only an imaginary and
symbolic animal, it is not real. However, to emphasize the birth of the Buddha
sacredly, miraculously, and respectfully, the dragon is mentioned; the dragon
is different than snake, the snake is reptile of non-leg, non-scab, cannot fly
and spray fire.
Theo
những hình ảnh mà chúng ta thấy, rồng
là con vật có chân, có vẩy, có mồng, có thể bay được, và phun lửa; trong ngữ cảnh
này, lúc đức Phật ra đời, địa cầu chuyển động,[83] trăm hoa đua nở, rồng có
trách nhiệm phun nước – nước từ bi,
chứ không phun lửa – lửa tham, sân, si… Nước từ bi này được bắt nguồn từ việc
tu tập và hành trì giới, định, và tuệ của chúng ta, có khả năng dập tắt các lửa
tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến…
According to pictures that we usually see, the dragon is the animal with legs, scabs, crests, can fly and spray
fire; in this context, when the baby Buddha was born, the earth vibrates,[84] a
hundred flowers bloom, the dragon has a responsibility to spray water – water of compassion, it does
not spray fire – fire of lust, anger, delusion, etc. This compassionate water,
which is started from our cultivation and practice of precepts, concentration,
and wisdom, has the ability to extinguish the fires of lust, anger, delusion,
arrogance, doubt, wrong view, etc.
Phun
khác với mưa; động từ phun dùng để
diễn tả sự tưới tẩm, thấm nhuần, và sự mát dịu thân tâm qua nhiều khía cạnh và
gốc độ khác nhau, đặc biệt khía cạnh tu tập, giác ngộ, giải thoát, hoằng pháp,
và độ sanh của đạo Phật, đức Phật, và đệ tử của đức Phật đối với vạn vật chúng
sanh trên khắp hành tinh này; nước trong cụm từ phun nước là danh từ làm tân ngữ bổ nghĩa cho động từ phun; phun
cái gì, phun nước; nước gồm có hydrô
(hydrogen) và oxy (oxygen), viết tắt là H2O; ở trong ngữ cảnh
này, nước không có nghĩa là nước mưa, nước sông, nước suối, mà là nước từ bi.
Spray is different than raining. The verb spray is used to describe sprinkling, permeation, coolness, and
softness of body and mind through many various aspects and angles, especially
the aspects of cultivation, enlightenment, deliverance, propagation and help of
human beings of Buddhism, the Buddha, and His disciples toward living things
and living beings all over this planet. Water in a phrase of spraying water is a noun making object
modify the verb spray; spraying what, spraying water; water consists of hydrogen and oxygen, it is abbreviated as H2O. In
this context, water does not mean rain water, river water, spring water, it
means the compassionate water.
Song
hành với trí tuệ, nước từ bi chứa đầy các chất liệu thương yêu
và hiểu biết, an lạc và hòa bình có khả năng dập tắt các ngọn lửa tham, sân, và
si do con người tạo tác. Thế giới ngày nay đang thiêu đốt, bốc cháy, chiến
tranh, thiên tai, lũ lụt… là do tâm tham, sân, si, tà kiến… của con người tạo
ra; nước từ bi xuất phát từ thân tâm
tu tập, an lạc, và mát mẻ qua việc ứng dụng và hành trì Phật pháp vào trong đời
sống hằng ngày. Thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc, xã hội thanh bình, gia
đình an vui và hạnh phúc cũng đều bắt đầu từ thân làm thiện, ý nghĩ thiện, và lời
nói thiện; nếu chúng ta hiểu và thực tập được như vậy, thì nước từ bi có khả năng tưới tẩm, thấm nhuần, và làm mát dịu thân
tâm.
Going together with wisdom, the compassionate water, which is full of the substances of love and
understanding, peace and peacefulness, has the ability to extinguish fires of
lust, anger, and delusion created by human beings. Today’s world that has
gotten burnt, ignited, warred, calamitous, flooded, etc., is created by one’s
human minds of lust, anger, delusion, wrong view, etc. The compassionate water is derived from one’s body and mind of
cultivation, peacefulness, and fresh coolness through applying and practicing
the Buddhadharma in one’s daily life.
The world of peace, human beings of peacefulness, society of tranquility,
family of joy and happiness, is also originated from bodily good actions,
mentally good thinkings, and verbally good speeches. If we understand and
practice like this, the compassionate
water has the ability to irrigate, to penetrate, and to make our bodies and
minds fresh and cool.
Như
vậy, chúng ta thấy 1/ Tư tưởng nuôi dưỡng
từ bi và giáo dục hòa bình trong đạo Phật bắt nguồn từ khi thái tử Tất Đạt Đa
còn nằm trong thai mẹ,[85] 2/ Từ xưa cho tới nay, đạo Phật là đạo hòa bình dành cho những ai tu tập,
hành trì, và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày của mình để đem lại
an lạc và hạnh phúc cho số đông ngay trong cuộc sống hiện tại.
Thus, we see that 1/ The
thought of nurturing loving-kindness, compassion and peace education in
Buddhism were originated from when prince Siddhārtha was still in his
mother’s fetus,[86] 2/ From past to present,
Buddhism has been the path of peace intended for those who cultivate, practice,
and apply the Buddhadharma
in their daily lives to bring peacefulness and happiness to the many right in
the present life.
Khi
đức Phật hài nhi đản sinh, không những phạm thiên, chư thiên, loài người, mà
còn các loài động vật, thực vật, và môi trường thiên nhiên, đều hân hoan chào
đón sự ra đời kỳ diệu của Ngài như trăm hoa đua nở, chim vui mừng hót, đặc biệt
các loài chúng sinh không bị sát hại. Mặc khác, nhìn vào khía cạnh giáng sinh của
nhà sáng lập tôn giáo khác, và ngay trong đời sống hàng ngày và hàng năm, mỗi
khi tới ngày giáng sinh hay sinh nhật của tôn giáo đó, chúng ta biết có không
ít chúng sinh bị sát hại và làm thịt.
When the baby Buddha was born, not only Brahma gods, gods, human
beings, but also animals, plants, and natural environment, are welcome to his
marvelous birth as a hundreds flowers blossom, birds are singing joyfully,
especially all kinds of living beings are not killed. On the other hand,
looking at aspects of the birth of an another religious founder, and right in
daily and annual life, each time the birthday of that religion comes, we have
known there are not less living beings killed and slaughtered.
Đối
với Phật giáo, nhìn toàn cảnh đức Phật đản sinh, kể từ khi đức Phật ra đời, trụ
thế trên cõi Ta Bà này suốt 80 năm, ngay cả sau khi đức Phật nhập diệt cho tới
ngày hôm nay, hễ tới mùa Phật đản và những mùa lễ hội khác, đức Phật và các
hàng đệ tử của Phật không bao giờ giết và khuyên bảo người khác giết hại sinh vật
để cúng tế, để làm thịt, và để tế thần.
Toward Buddhism, looking at an overview of his birthday, since the
baby Buddha who was born lived in this Saha world throughout 80 years, even
after the Buddha’s death until today, whenever a season of his birthday and
other festive seasons of Buddhism come, the Buddha and his disciples has never
killed and encouraged other people to kill living beings in order to sacrifice,
to slaughter, and to offer sacrifices to gods.
Trong
các mùa lễ hội của đạo Phật, các vị đệ tử của đức Phật không sát hại chúng
sinh; ngược lại, các vị phát khởi thiện tâm bằng cách ăn chay, niệm Phật, ngồi
thiền, phóng sinh, bố thí, và giúp người nghèo khổ. Những việc làm này của các
vị mang đậm chất liệu từ bi và trí tuệ theo đúng tinh thần tự tu, tự độ, tự ngộ,
và tự giải thoát.
In the festive seasons of Buddhism, the Buddha’s disciples do not
kill animals; in contrast, they arouse their wholesome hearts by eating
vegetarian food, reciting the names of the Buddhas and Bodhisattas, sitting
meditation, releasing animals, giving alms, and helping needy and poor people.
These works of theirs bear deep substance of loving-kindness, compassion, and
wisdom according to the right spirit of self-cultivation, self-help,
self-attainment, and self-deliverance.
Chúng
ta hiểu và thực tập được Phật pháp như vậy, thì phúc đức và tuổi thọ của chúng
ta càng ngày càng tăng trưởng. Các loài chúng sinh đều được an vui bởi vì chúng
ta khéo biết ứng dụng và hành trì giáo lý từ bi và trí tuệ của đạo Phật và
trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
We understand and practice the Buddhadharma like this, our virtuous
blessings and longevity develop more and more. Kinds of living things and
living beings get peaceful because we skillfully know to apply and to practice
the teachings of loving-kindness, compassion, and wisdom of Buddhism in our
every day lives.
Qua
những gì thảo luận ở trên, hòa bình trong đạo Phật được bắt nguồn từ trong trứng
nước, tức thai nhi (giáo dục thai nhi),[87] đặc biệt là trong các ý
nghĩ, lời nói, và việc làm thiện của chúng ta trong đời sống hàng ngày. Là người
tiếp nối và kế thừa ánh sáng của chánh pháp, chúng ta có trách nhiệm phát huy
và nuôi dưỡng tinh thần giáo dục hòa bình và bất bạo động để đem lại an lạc và
hạnh phúc cho nhiều người.
Through the above discussed things, peace in Buddhism is originated
from the egg, namely the fetus (education of the fetus),[88]
especially in our good thinkings, speeches, and actions in our daily lives. As
people connecting and inheriting the light of the Dharma, we are responsible
for promoting and nourishing the spirit of education of peace and non-violence
to bring peacefulness and happiness to many people.
Học
và hiểu rõ Phật pháp, chúng biết đức Phật là vị Vua hòa bình, vị Sứ giả hòa
bình, vị đạo Sư tâm linh của hòa bình, và là vị hành Giả đích thực của hòa
bình. Do vậy, đạo Phật được mệnh danh là đạo tỉnh thức, đạo hòa bình, đạo của
tình thương và trí tuệ; các bước chân đi của đức Phật và các vị đệ tử của Ngài
là các bước chân hòa bình, tỉnh thức, an lạc, và hạnh phúc cho số đông trên khắp
hành tinh này.
Learning and understanding the Buddhadharma clearly, we know that
the Buddha is the King of peace, the Messenger of peace, the spiritual Teacher
of peace, and is the authentic Practitioner of peace. Therefore, Buddhism is
called as the path of awakening, the path of peace, and the path of love and
wisdom. The footsteps of the Buddha and his disciples are the footsteps of
peace, awakening, peacefulness, and happiness for the many all over this
planet.
Nhìn
suốt cuộc đời của Ngài, chúng ta thấy rằng đức Phật sinh ra dưới gốc cây Vô Ưu ở
vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạo
dưới gốc cây Bồ đề ở Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya),
nói bài pháp đầu tiên về Tứ Diệu đế cho năm anh em của ông Kiều Trần Như (Anna Kondanna) ở vườn Lộc Uyển (Deer
park, Sarnarth), và nhập diệt dưới 2
cây Ta la (Sala) ở Câu Thi La (Kushinagar). Tất cả những nơi đó đều là
môi trường thiên nhiên, môi trường hòa bình, môi trường tu tập và hành đạo được
đức Phật và các đệ tử của Ngài bảo vệ và chăm sóc chu đáo. Kinh Pháp Cú, kệ số
98 ghi:
Looking at his lifetime, we find that the baby Buddha, who was born
under a Sorrowless Tree (Ashoka) in
Lumbini garden, obtained enlightenment under the Bodhi tree at Bodhgaya, preached the first Sermon of
four Noble Truths to the five Brothers of the Elder Anna Kondanna in the Deer Park, Sarnath,
and passed away under the two Sala trees
in Kushinagar. All those places are
environment of nature, that of peace, that of cultivating and practicing the Dharma taken care of and protected by
the Buddha and His disciples thoughtfully. Dhammapada,
Verse 98 stated:
“Hoặc trong làng mạc hoặc trong núi rừng,
Hoặc
trong thung lũng hoặc trên đồi cao,
Bất
cứ nơi nào A La Hán trú,
Nơi
đó vô vàn vui sướng biết bao.”[89]
“Whether in a village or in a mountain
forest,
Or
in a valley or on a high hill,
Wherever
Arhat resides,
Thật
vậy, dựa vào các môi trường thiên nhiên, đức Phật và các đệ tử của Ngài tu tập
và giáo hóa chúng sanh để đem lại hòa bình, an lạc, và hạnh phúc đích thực cho
số đông. Trong 45 năm hoằng dương chánh Pháp, Ngài hóa độ rất nhiều hạng người
giàu, nghèo, giặc cướp, kỉ nữ, vua quan, quần thần khác nhau… Những người nào
có đủ duyên học pháp, hiểu pháp, hành pháp, hoằng pháp, hộ pháp, và nếm được
pháp lạc thì họ đều trở thành những người an lạc, hạnh phúc, hiền, và thiện
ra.
Indeed, relying on the natural environment, the Buddha and his
disciples cultivate and teach human beings to bring peace, peacefulness, and
happiness authentically to the many. In the forty five years of spreading the
Dharma, he taught so many different kinds of the rich, the poor, robbers,
courtesans, kings, mandarins, etc. Those who have a sufficiently good chance to
learn the Dharma, to understand it, practice it, protect it, and enjoy it will
become more peaceful, happier, gentler, and better people.
Quý
vị biết trong cuộc sống thường ngày, đức Phật không những đề cao và tôn trọng sự
sống của con người, mà còn đời sống của con vật, con sâu, con kiến, cỏ, cây, rừng,
núi, đất đá, thậm chí con vi trùng ở trong bát nước…
As you know in His daily life, the Buddha not only promotes and
respects human life, but also lives of animals, worms, ants, grass, trees,
forests, mountains, soils, rocks, even germs in a water bowl, etc.
Với
tinh thần thực tập từ bi, trí tuệ, chánh niệm, và tỉnh giác trong từng cử chỉ
nói năng, suy nghĩ, và hành động của Ngài, khi uống nước, khi đi, đứng, nằm, ngồi,
ngủ, thức…, Ngài và các đệ tử của Ngài luôn giữ thân tâm chánh niệm và tỉnh
giác cho tự thân và cho tha nhân. Do vậy, các việc làm tỉnh thức và chánh niệm
của quý Ngài đều có khả năng nuôi dưỡng tinh thần hòa bình, tình thương yêu,
tình huynh đệ, tình tương thân, tương ái, tương kính… cho nhiều người.
With the spirit of practicing loving-kindness, compassion, wisdom,
mindfulness, and awareness in every gesture of His verbal actions, mental
actions, and bodily actions, when drinking water, when walking, standing,
sitting, sleeping, getting up, etc., He and His disciples always keeps their
minds and bodies mindful and awakening for themselves and for other people.
Therefore, their awakening and mindful actions have the ability to nurture the
spirit of peace, compassion, brother/sisterhood, mutual affection, mutual love,
mutual respect, etc., for many people.
Như
vậy, trên đây, hòa bình được đề cập trong ẩn dụ, nhấn mạnh, trong đời sống tu tập,
trong giáo pháp, và trong việc hoằng pháp của đức Phật và các đệ tử của Ngài;
tiếp đến, hòa bình được trình bày trong lời dạy của Ngài, cụ thể là “Cái thấy hòa bình, suy nghĩ hòa bình, lời
nói hòa bình, hành động hòa bình, việc kiếm sống hòa bình, nỗ lực hòa bình, nhớ
nghĩ hòa bình, và tập trung hòa bình.” Đây là những lời Phật dạy nhấn mạnh
về hòa bình, an vui, và hạnh phúc cho số đông trên khắp hành tinh này. Những ai
thực tập và an trú thấm nhuần những lời dạy hòa bình này một cách đều đặn,
chánh niệm, và tỉnh giác thì họ là những hành giả đích thực có khả năng đem đạo
Phật đi về tương lai một cách vững chãi và tươi sáng.
Thus, above, the peace is mentioned in metaphor, emphasis, in lives
of cultivation, in the Dharma, and in the Dharma propagation of the Buddha and
His disciples; next, the peace is presented in His teachings, namely “Understanding of peace, thought of peace,
speech of peace, action of peace, livelihood of peace, effort of peace,
mindfulness of peace, and concentration of peace.” These are the Buddha’s
teachings emphasized on peace, peacefulness, and happiness for the many all
over this planet. Those who practice and dwell penetratively in the teachings
of the peace regularly, mindfully, and attentively are authentic practitioner
with the ability to bring Buddhism to the future steadily and brightly.
Hòa
bình trong giáo pháp của Ngài rất thiết thực hiện tại, vượt thoát thời gian,
các bạn đến để thấy, đến để nghe, đến để hiểu biết, đến để thực hành Phật pháp
trong từng hơi thở, ý nghĩ, và việc làm ý thức và chánh niệm của mình, và đến để
góp phần đem lại an lạc và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay bây giờ
và ở đây trong cuộc sống hiện tại. Với những ý nghĩa thiết thực được trình bày ở
trên, chúng ta có thể khẳng định và tự hào rằng ngày nay đạo Phật được thế giới
tôn vinh là tôn giáo hòa bình, con đường hòa bình vạch ra nhiều hướng đi
an lạc và trong sáng cho thời đại.
Peace in His Dharma is very practical in the present, beyond time,
you come and see, come and hear, come and understand, come and practice the Buddhadharma in your mindful and
conscious breath, thought, and action, and come and contribute to bringing
peacefulness and happiness to oneself and other people right here and right now
in the present life. With the above-presented practical meanings, we can affirm
and pride that Buddhism today has been honored as a religion of peace, the path of peace outlined many directions leading
to peace and brightness for the modern age.
Tóm
lại, qua những gì thảo luận ở trên, từ
cái nhìn thứ nhứt đến cái nhìn thứ chín, tác giả viết và chia ra như vậy là
để người đọc, người học dễ hiểu, dễ nắm bắt các ý nghĩa thiết thực của chúng, dễ
áp dụng, và dễ thực hành Phật pháp vào trong đời sống tu tập hằng ngày của
mình.
In brief, through the above discussed things, from the first vision to the ninth vision, the author writes and
divides them like this for readers and learners to easily understand, to easily
grasp their practical meanings, to easily apply, and to easily practice the
Buddhadharma in their daily cultivation lives.
Chín cái nhìn cơ bản này được đề cập ở trên đều có các mối tương quan và
tương duyên với nhau rất mật thiết qua nhiều phương diện, khía cạnh, và gốc độ
khác nhau để hình thành đức Phật lịch
sử, đạo Phật bình đẳng, giáo pháp bình đẳng, tôn giáo bình đẳng; đạo Phật hòa
bình, giáo pháp hòa bình, tôn giáo hòa bình, con đường hòa bình, hành giả hòa
bình… Chín cái nhìn này đều có khả năng giúp chúng ta có cái nhìn chân chánh,
cái thấy chân chánh, cái biết chân chánh, tư duy chân chánh, lời nói chân
chánh… về đạo Phật, đức Phật, các đệ tử của đức Phật, pháp Phật, pháp học, pháp
tu, pháp hành, pháp lạc, và pháp chứng.
These nine basic visions that above discussed have the interrelated
and interdependent things very closely through many different respects,
aspects, and angles to form the historical Buddha,
Buddhism of equality, the Dharma of equality, religion of equality; Buddhism of
peace, the Dharma of peace, religion of peace, the path of peace, practitioner
of peace, etc. These nine visions have the ability to help us have right look,
right view, right understanding, right thought, right speech, etc., about
Buddhism, the Buddha, His disciples, Buddhadharma,
Dharma learning, Dharma cultivation, Dharma practice, Dharma joy, and Dharma
attainment.
Hiểu
và thực hành được như vậy, thì chúng ta dũng mãnh phát nguyện học pháp, hiểu
pháp, hành pháp, nếm pháp, hoằng pháp, và hộ pháp một cách vững chãi và thảnh
thơi, an vui và hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại. Từ
đây, chúng ta là những món quà tu tập, hòa bình, an vui và hạnh phúc đích thực
cho tự thân và cho tha nhân ngay tại thế gian này.
Kính chúc quý vị an trú vững chãi và thấm nhuần giáo
pháp của đức Thế Tôn!
By
Thích Trừng Sỹ
Understanding and practicing like this, we strongly develop our
vows to learn the Dharma, to grasp the Dharma, to practice the Dharma, to enjoy
the Dharma, to spread the Dharma, and to protect the Dharma steadily and
relaxedly, peacefully and happily right here and right now in the present life.
Coming to this stage, we are gifts of authentic cultivation, peace,
peacefulness, and happiness for ourselves and other people right in this world.
May you instill and dwell stably in the
Dharma of the World-Honored One!
By Thích Trừng Sỹ
Xem Trường Bộ - Kinh Đại Bổn 14, Phẩm III –
22 - 23 (Dìgha Nikàya - Mahàpadàna sutta 14,
Part 22 - 23).
[5] Pháp Cú, kệ 49.
[6]
Dhammapada, Verse 49.
Xem Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – 14 Kinh Đại Bổn (Mahàpadàna Sutta), Phẩm I – 18, 19, 20…
Xem D.
14. I.
See
Collection of Long Discourses (Dìgha
Nikàya) – 14 The Great Discourse on the Lineage (Mahàpadàna Sutta), Part I – 18, 19, 20…
[13]
Như trên.
[14]
As above.
[18]
Xem http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-76_4-3897_5-50_6-1_17-50_14-1_15-1/ Xem Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammcakkappavattana
Sutta).
[20]
See http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-76_4-3897_5-50_6-1_17-50_14-1_15-1/ See the Sutta of Setting the Dhamma Wheel in
motion (Dhammcakkappavattana Sutta).
[21]
Xem III. Thức (viññana), http://daitangkinhvietnam.org/nghien-cuu-phat-hoc/phat-hoc-tong-quat/665-thp-nh-nhan-duyen.html
[22] Xem http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_4-811_5-50_6-1_17-56_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark
Or xem Assalayana
Sutta No. 93 in Majjhima Nikāya.
Xem Kinh Trường A Hàm, Phần I – 1. Kinh Đại
Bản Duyên 4c
Xem Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – 14 Kinh Đại Bổn (Mahàpadàna Sutta), Phẩm I – 17, 18, 19…
Xem Dìgha Nikàya - Mahàpadàna sutta / Trường Bộ -
Đại Bổn Kinh số 14.
Xem Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – 14 Kinh Đại Bổn (Mahàpadàna Sutta), Phẩm I - 29
[30]
See (Dìgha Nikàya) – 14 Kinh Đại Bổn (Mahàpadàna Sutta), Phẩm I – 29
[31]
Xem http://www.quangduc.com/DucPhat/82sutichducphat01.html#_ftnref7
[37]
Tương Ương Bộ (Samyutta Nikaya, V – 420),
Kinh Chuyển Pháp Luân[1] (Dhammacakkappavattana Sutta) – Bài Pháp đầu tiên
mà đức Phật thuyết giảng cho 5 anh em Trưởng
lão A Nhã Kiều Trần Như (Aññakoṇḍañña)
tại Vườn Lộc Uyển – Sarnath, Ấn Độ.
[39]
Xem http://quangduc.com/kinhdien/223truongaham01.html / hoặc xem Trường A Hàm – Sơ Đại Bản Duyên
Kinh
[40]
See the Collection of long Suttas (Digha
Nikàya), No 14 Mahāpadāna sutta
http://quangduc.com/kinhdien/223truongaham01.html / or see Trường A Hàm (S. Dīrghāgama)
– Sơ Đại Bản Duyên Kinh
Xem Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – 14 Kinh Đại Bổn (Mahàpadàna Sutta), Phẩm I - 27
Xem D.
14, I. 27.
[44]
See D. 14, I. 27.
[45]
Xem Pháp Môn Tịnh Hạnh - Phẩm Thuỵ
Ứng của Kinh Ưu Bà Di
[46]
See Pháp Môn Tịnh Hạnh - Phẩm Thuỵ
Ứng của Kinh Ưu Bà Di
[49]
Xem http://www.quangduc.com/DucPhat/82sutichducphat01.html#_ftn8 Hoặc xem Trường A Hàm – Sơ Đại Bản Duyên
Kinh
[50] See
See D. 14, I. 27.
[52]
See Thích Nhất Hạnh. Chanting from
the hear, Buddhist Ceremonies and Daily Practices. Parallax Press,
Berkeley, California: 2007, P. 180.
[53]
Như trên.
[54] See Xem http://langmai.org/phat-duong/tung-gioi/nghi-thuc-tung-10-gioi
in Vietnamese
Xem Kinh Trường A Hàm, Phần I – 1. Kinh Đại
Bản Duyên 4c
Xem Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – 14 Kinh Đại Bổn (Mahàpadàna Sutta), Phẩm I - 29
Xem D.
14 I. 29
Xem http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn06/sn06.001.than.html or Xem Samyutta Nikaya 6
[62]
Xem Anguttara Nikaya III. 71
http://www.buddhanet.net/budsas/ebud/budtch/budteach06.htm#_ednref17 → Anattalakkhana
Sutta – Kinh Vô Ngã tướng. Or xem Mahāvagga, p. 13; Samyutta Nikāya pt. iii, p. 66.
Or see Mahāvagga, p. 13; Samyutta Nikāya pt. iii, p. 66
[64]
Xem Kinh Trường A Hàm, Phần I – 1. Kinh Đại Bản Duyên 4c
Xem Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – 14 Kinh Đại Bổn (Mahàpadàna Sutta), Phẩm I - 29
Xem D. 14 I. 29.
Xem Trường Bộ - Kinh Đại Bổn 14, Phẩm III –
22, 23, 24… (Dìgha Nikàya - Mahàpadàna sutta 14,
Part 22, 23, 24, etc.).
Xem Trung Bộ - Kinh Thánh Cầu 26 (Majhima Nikàya – Ariyapariyesanà Sutta 26)
[67]
See Majhima Nikàya – Ariyapariyesanà Sutta 26.
[68]
Xem http://www.quangduc.com/kinhdien/240phaphoahn3.html#PH%E1%BA%A8M%20TH%E1%BB%A8%20N%C4%82M
[69]
See http://reluctant-messenger.com/lotus_sutra_05.htm
[70]
Xem Textual Sources for the Studies of Hinduism, Wendy
Doniger O’Flaherty dịch, Manchester: Manchester University Press, 1988, tr. 28.
Trong Rg-Veda, hệ thống đẳng cấp bốn bậc này chỉ được
đề cập một lần duy nhất; và đoạn kinh văn này được cho là được bổ sung về sau.
Xem http://www.hoavouu.com/D_1-2_2-86_4-17687_15-2/
[71]
See Textual Sources for the Studies of Hinduism, Wendy
Doniger O’Flaherty dịch, Manchester: Manchester University Press, 1988, tr. 28.
[72]
Xem
S. Radhakrishnan. Indian Philosophy., Vol. I,
Oxford University Press, 2008, trang 111 – 3.
[73]
See S. Radhakrishnan. Indian
Philosophy., Vol. I,
Oxford University Press, 2008, pp. 111 – 3.
http://www.buddhanet.net/e-learning/history/db_06s.htm
[75]
Xem http://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/thien-tap/duong-xua-may-trang/chuong-43-mau-ai-cung-do-nuoc-mat-ai-cung-man?set_language=vi
http://chandawimala.blogspot.com/2010/09/buddhist-pantings-life-of-buddha.html
[77]
See http://www.buddhanet.net/e-learning/history/db_06s.htm
[78]
See http://chandawimala.blogspot.com/2010/09/buddhist-pantings-life-of-buddha.html
[82] See
http://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/duong-xua-may-trang/chuong-43-mau-ai-cung-do-nuoc-mat-ai-cung-man
in
Vietnamese
[83]
Xem Tăng Nhất A Hàm – Tám Pháp →
42. Phẩm Tám Nạn → Kinh Số 5
[84]
Xem http://www.phatviet.com/dichthuat/kinhtang/Tangnhat_A_ham/Tn_00.htm
in Vietnamese
[85]
Xem
http://www.daophatngaynay.com/vn/van-hoa/xuan/3976-Nhin-Xuan-Qua-Con-Mat-Thien-Quan.html
[86] See
http://www.buddhismtoday.com/english/culture/lookingthespring.htm
[87] Xem
phần số hai được trình bày ở trên
[90] See http://phapnhandharmawheel.blogspot.com/p/buddha-embodiment-of-peace.html