Saturday, 20 July 2013

Nhin Phat Dan Qua Con Mat Thien Quan



Nhìn Phật đản qua con mắt thiền quán
Khi chúng ta nghĩ về sự ra đời của một con người, một bậc Thánh, hay của một đức Phật, thì chúng ta xem nó là sự hình thành, sự bắt đầu, sự chuyển tiếp, sự tiếp nối … của một đời sống mới. Thông thường, cái ngày đầu tiên mà con người phàm phu, vị Thánh, hoặc vị Phật sinh ra đời thì gọi chung là ngày sinh, ngày chào đời, hay ngày sinh nhật; sinh nhật của một con người thì gọi là phàm sinh, sinh nhật của một vị Thánh gọi là Thánh Đản, hoặc sinh nhật của một đức Phật gọi là Phật Đản. Vì nghiệp lực tái sinh, một vị phàm phu sinh ra đời; vì nguyện lực cứu độ chúng sinh, một vị Thánh hay một vị Phật thị hiện ra đời. Đạo Phật, đạo tỉnh thức, từ bi, trí huệ, bình đẳng, và hòa bình, có nguồn gốc từ Phật đản sinh và Phật giác ngộ.
Looking at the Buddha’s Birthday through the Contemplative Eyes
When we think about the birth of a person, that of a Saint, or the birth of a Buddha, we can see it as the formation, beginning, continuity, transition, continuation, etc., of one’s new life. Normally, the first day when a human being, a Saint, or a Buddha is born is generally called the day of birth, date of birth, or birthday; birthday of the person called human birthday, that of the Saint called Saint’s Birthday, or the birthday of the Buddha called Buddha’s Birthday. Out of the power of rebirth Karma, a being was born in the world; born out of the powerful vow of saving and helping human beings, the noble Saint or the Buddha manifests to be born in the world. Buddhism, which is the path of awakening, loving-kindness, compassion, wisdom, equality, and peace, has its source in the Buddha’s Birthday and his enlightenment.


Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, một con người lịch sử bằng xương bằng thịt, sinh ra đời cách đây gần ba nghìn năm dưới cây Vô Ưu tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), một phần của nước Nê-pan (Nepal) ngày nay. Năm 249 trước thường lịch, sự kiện này[1] được vua A Dục (Ashoka) khắc ghi, đánh dấu kỷ niệm, và ghi rõ trong Kinh A Hàm như sau: “Một chúng sinh duy nhất, một con người phi thường, xuất hiện trên thế gian này, vì an lạc cho số đông, vì hạnh phúc cho số đông, vì an lạc và hạnh phúc cho chư thiên và loài người, chúng sinh đó chính là con người lịch sử  đức Phật Thích Ca Mâu Ni.[2]
Sakyamuni Buddha, a historical and actual Person of the flesh, was born in this world nearly three thousand years ago under a sorrowless (Ashoka) tree in the Lumbini garden, a part of Nepal today. In 249 BCE, this event,[3] which was engraved on a commemorative marker by King Asoka, was clearly written in the Agama Sutra as follows: “A unique being, an extraordinary person, appears in the world, out of peacefulness for the many, out of happiness for the many, out of peacefulness and well-being for gods and human beings, the being is mainly the historical and actual person – the Sakyamuni Buddha.[4]
Trong bài viết này, có 9 cái nhìn khác nhau về Phật đản sẽ được thảo luận dưới đây như sau:
In this writing, nine different visions of the Buddha’s Birthday will be discussed as follows: Bottom of Form
1.     Nhìn Phật đản qua khía cạnh con người lịch sử
2.     Nhìn Phật đản qua khía cạnh ẩn dụ, huyền thoại, và nhấn mạnh
3.     Nhìn Phật đản qua khía cạnh biểu tượng hoa sen
4.     Nhìn Phật đản qua khía cạnh con người tối thắng
5.     Nhìn Phật đản qua khía cạnh con người bình thường
6.     Nhìn Phật đản qua khía cạnh con người kham nhẫn, trí tuệ, hướng thượng,
        hướng thiện, giác ngộ, an vui, và giải thoát
7.     Nhìn Phật đản qua khía cạnh tưới tẩm, nuôi dưỡng, khơi dậy, và đánh thức
Phật tánh trong tất cả chúng sanh.
8.     Nhìn Phật đản qua khía cạnh bình đẳng
9.     Nhìn Phật đản qua khía cạnh hòa bình

1.     Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of the historical person
2.     Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of metaphor, legend, emphases,
          etc.
3.     Looking at the Buddha’s Birthday via the symbols of the lotus flowers
4.     Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of the supreme person
5.     Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of the normal person
6.     Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of endurance, wisdom, leading to upper, to good, enlightenment, peacefulness, and liberation
7.     Looking at the Buddha’s birthday via aspects of watering, nourishing, arousing, and awakening Buddha nature in all living beings
8.     Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of equality
9.     Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of peace


1.     Nhìn Phật đản qua khía cạnh con người lịch sử
Tất-đạt-đa Cồ-đàm (Siddhārtha Gautama), con người có thật trong lịch sử, đã từng sống trên trái đất của chúng ta cách đây gần 3 nghìn năm. Khi Ngài sinh ra được 7 ngày, thì mẹ Ngài, tức thánh Mẫu Ma Da (Māyādevī) qua đời. Người mẹ kế của thái tử là Bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahāpajāpatī Gotamī) chăm lo thái tử rất tận tình và chu đáo. Thân phụ của thái tử tên là vua Tịnh Phạn (Suddhodana). Khi lớn lên, thái tử kết hôn với công chúa Da Du Đà La (Yasodharā), và có một người con trai duy nhất tên là La Hầu La (Rāhula).
1.     Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of the historical person
Siddhārtha Gautama, an actual historical personage, lived on our earth nearly three thousand years ago. When he was born on seven days, his mother, namely the holy Mother Maya Māyādevī passed away. The prince’s stepmother was Mrs. Mahāpajāpatī Gotamī, who took care of him very wholeheartedly and thoughtfully. The prince’s father was named King Suddhodana. When the Prince was grown, he married princess Yasodharā, and had only one son named Rāhula.


Mặc dầu sống trong cảnh nhung lụa, giàu sang, và sung sướng, nhưng thái tử cảm thấy bị ràng buộc, không tự do, và thoái mái, cùng với người hậu cận của mình tên là Sa Nặc, thực hiện một chuyến đi ra khỏi 4 cửa thành để thăm các cảnh thật bên ngoài. Ra khỏi cửa thành cung điện, đi về hướng Đông, thái tử và Sa Nặc gặp người già; đi về hướng Tây, hai người gặp người bệnh; đi về hướng Nam, gặp người chết; và đi về hướng Bắc, gặp vị Khất sĩ.
Although living in the lap of luxury, wealth, and happiness, the prince felt confirmed, unfree, uncomfortable, and finally, along with his companion named Channa, he made a trip out of the four gates of the royal palace to visit the real world outside. Getting out of the gates of the palace, going to the East, the prince and Channa met an old person; going to the West, they met a sick person; going to the South, they saw a dead person; and going to the North, they met a mendicant.
Trong bốn cảnh thật mà thái tử chứng kiến, cảnh thật thứ tư là hình ảnh thái tử thích nhất; hình ảnh của vị khất sĩ thong dong, khoang thai, ung dung, nhẹ nhàng, và thư thới. Hình ảnh này khắc sâu vào trong tâm trí của thái tử, đưa thái tử tới một cuộc đời thiền quán sau này, giúp thái tử trở thành vị tu sĩ không nhà, sống không có gia đình, và không bị ràng buộc bởi các ràng buộc gia đình và con cháu.
Of the four real scenes that the prince witnessed, the fourth was the image he liked best; the mendicant’s image was untroubled, leisurely, carefree, light-hearted, and relaxed. This image, which became engraved deeply in the prince’s inner mind, led him to taking up a life of contemplative meditation later on, help him to become a homeless monastic, living without a family and being not bound by the ties of his royal family and descendant.  
Xuất gia lúc 29 tuổi, nhà tu Tất Đạt Đa (Siddhārtha), học đạo với hai vị đạo sĩ: Alara-KalamaUddaka-Ramaputta, trải qua 6 năm tu khổ hạnh với 5 anh em Tôn giả Kiều Trần Như (Kondañña), và thấy lối tu khổ hạnh và sự chứng đạo của họ bị thiên kiến, sai lệch, và không hoàn hảo. Ngài quyết định rời họ và chọn cho mình con đường Trung Đạo (majjhimāpaipadā) bằng cách thực tập lối không khổ hạnh ép xác và không tham đắm dục lạc.
Leaving home for a religious life at the age of 29, the hermit Siddhārtha, learned religion from two ascetics: Alara-Kalama and Uddaka-Ramaputta, spent six years practicing asceticism with the five brothers of the honored Elder Kondañña, and saw that their ascetic practices and religious attainments were prejudiced, aberrant, and imperfect. He decided to leave them and to choose himself the Middle Way (Majjhimāpaipadā) by practicing ways of non-self-indulgence and non-self-mortification.
Sau khi dùng bát cháo sữa của nàng Su Dà Ta (Sujata), Bồ tát Tất Đạt Đa nhận bó cỏ Kiết tường (Kusa) của người nông phu, đi thẳng tới Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya), và ngồi thiền định 49 ngày đêm dưới cội Bồ đề. Cuối cùng, Bồ tát giác ngộ và thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni) lúc 35 tuổi.


After having eaten a milky porridge bowl given him by a young lady named Sujata, Bodhisattva Siddhārtha received a bunch of grass (Kusa) from a farmer, went straight to Bodhgaya, and sat in meditation under a Bodhi tree throughout 49 days and nights. Finally, the Bodhisattva achieved Enlightenment and became the Buddha called Sakyamuni at the age of 35.
Tính theo Phật đản hay sự ra đời của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) vào khoảng năm 624 trước công nguyên, lấy năm 624 cộng với năm nay, tức năm 2013, ta có Phật đản lần thứ 2637. Siddhartha có nghĩa là con Người toại nguyện, hoàn hảo, và tốt đẹp có đầy đủ phước đức và trí tuệ. Tính theo Phật lịch hay sự nhập niết bàn của đức Phật năm 544 trước công nguyên, lấy năm 544 cộng với năm nay – 2013, ta có năm Phật lịch 2557. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Người sáng lập ra đạo Phật – đạo tỉnh thức, hòa bình, bình đẳng, từ bi, và đạo trí tuệ.
Counting according to the Buddha’s Birthday or the birth of the Prince Siddhartha in about 624 BCE, taking the year 264 plus this year, namely in the year 2013, we have the 2637th Buddha’s Birthday. Siddhartha means a fully contented and perfect person has enough merit and wisdom. Counting according to the Buddhist calendar or to the Buddha’s passing away in the year 544 BCE, taking the year 544 plus this year, namely the year 2013, we have the Buddhist calendar year 2557. Sakyamuni Buddha is the founder of Buddhism: the path of awakening, that of peace, equality, loving-kindness, and that of wisdom.
Thích Ca (Sakya) là cái họ; Mâu Ni (Muni) là vị xuất Sĩ an lạc và tự do. Vậy Thích Ca Mâu Ni, người con dòng họ Thích Ca (Sakya) tại thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu), có nhiều an lạc và hạnh phúc, vững chãi và thảnh thơi, thương yêu và hiểu biết, xuất gia tu tập, thành đạo, hướng tới tự tại và giải thoát, và đem lại hòa bình, an lạc, và hạnh phúc đích thực cho pháp giới chúng sinh trên khắp hành tinh này.
Sakya is his clan; Muni is a peaceful and free Monastic. Thus, Sakyamuni, the Sakya clan son in Kapilavastu capital, had much peacefulness and happiness, steadiness and leisureliness, love and understanding, and left his royal palace for a monastic life to cultivate, to attain enlightenment, to lead to light-heartedness and deliverance, and to bring authentic peace, joy and happiness to living things and living beings all over the planet.




Hoằng dương chánh pháp trong suốt 45 năm, nhập diệt lúc tuổi 80, đức Phật giáo hóa rất nhiều hạng người khác nhau như vua, quan, quần thần, thương gia, tôi tớ, thậm chí người hốt phân, kẻ cướp, và kỷ nữ. Những ai có đủ duyên học Phật, nghe pháp, thực tập giáo pháp của đức Phật, và sống đời sống chánh niệm và tỉnh giác, và sau đó, an lạc và hạnh phúc có khả năng thấm nhuần và làm mát dịu thân tâm.
Spreading the Dharma for 45 years, passing away at the age of 80, the Buddha taught very many different kinds of people such as kings, mandarins, royal officials, merchants, servants, even dung-collectors, bandits, and courtesans. Those who have enough their good opportunities are able to learn Buddhism, listen to the Dharma, practice the Buddha’s teachings, and live their lives of mindfulness and awareness, and then peacefulness and happiness have the ability to instill, to calm, and to cool their bodies and minds.
Theo cái nhìn tương quan và tương duyên, chúng ta thấy con người lịch sử có thật, con người thành Phật, nói pháp, và nhập niết bàn, tuy hai là một, và tuy một là hai, tương tự như nước với sóng, và sóng với nước; cả hai hạng người này nương vào nhau không thể tách rời nhau được.
According to correlative and interdependent vision, we see an actual historic person, that person becoming the Buddha, preaching the Dharma, and entering Nirvāa, - these two are one, and one is two, similar to water and its wave, and wave and its water; both of these persons are each other and cannot be separated.



Sống suốt cuộc đời hòa hợp vào môi trường thiên nhiên, thái tử Tất Đạt Đa sơ sinh, tức đức Phật sơ sinh, sinh ra dưới cây Vô Ưu ở vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạo dưới cội cây Bồ Đề (Bodhi tree) tại Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya), nói bài Pháp đầu tiên – Tứ Diệu Đế cho 5 anh em ông Kiều Trần Như ở vườn Nai – Sarnath, nhập diệt dưới 2 cây song thọ tại rừng Sa La (Sala) tại thành Câu Thi La (Kusinagar).
Living his whole life in harmony with the natural environment, a newborn Siddhārtha prince, namely a newborn baby Buddha, was born under a sorrowless tree in the Lumbini garden, obtained enlightenment under the Bodhi tree at Bodhgaya, preached the first Dharma Sermon – the Four Noble Truths to the five brothers of the honored Elder Añña Kondañña in the Deer park – Sarnath, and passed away under the twin trees in the Sala forest in Kusinagar district.
Đây là 4 Thánh địa quan trọng nhất của Phật giáo nhằm tiêu biểu cho đức Phật và cuộc đời của Người luôn luôn sống để bảo vệ môi trường thiên nhiên rất chu đáo, an lạc, tự tại, và thảnh thơi.
These are the four most important holy places of Buddhism that are to represent the Buddha and the life of His, always living to protect the natural environment thoughtfully, peacefully, freely, and leisurely.

Như ong đi tìm hoa,
nương hoa để hút mật,
chỉ hút mật rồi bay,
chúng không làm tổn thương hương sắc của hoa.”[5]
As bees that go to find flowers,
rely on flowers to suck nectar,
only suck nectar and then fly away,
but they do not injure the perfume and beauty of flowers.[6]
Hoa dụ cho môi trường thiên nhiên; mật là biểu tượng cho Pháp học, pháp hành, pháp hiểu, pháp lạc và pháp vị; con ong dụ cho đức Phật và các đệ tử của Ngài biết cách nương vào môi trường thiên nhiên để sống, để vui, để tu tập, để làm đạo, và nương vào Phật, Pháp, Tăng để xây dựng hạnh phúc, tình thương, và hòa bình cho số đông.
Flowers are an example of the natural environment; nectar is a symbol of Dharma learning, Dharma practice, Dharma understanding, Dharma joy, and Dharma flavor; bees are symbols of the Buddha and His disciples, knowing how to rely on the natural environment to live, to rejoice, to cultivate, to do mindful activities, and to rely on the Buddha, the Dharma, and the Sangha in order to build happiness, love, and peace for the many.
Nhìn Phật đản tóm lượt xong qua khía cạnh Ngài như con người lịch sử,[7] kế đến chúng ta tiếp tục tìm hiểu các tính đặc thù tiếp theo của Phật đản.
Having briefly looked at the Buddha’s Birthday via the aspects of Him as an historical person,[8] we are next going to continue to learn about the specific following features of the Buddha’s Birthday.




2.     Nhìn Phật đản qua khía cạnh ẩn dụ, huyền thoại, nhấn mạnh…
Khi nhìn sâu vào sự ra đời của đức Phật, chúng ta thấy rằng những tính đặc thù của Phật giáo mang nhiều ý nghĩa rất quan trọng để chúng ta học hỏi. Bổn sanh truyện (Jàtaka)[9] ghi rằng hoàng hậu Ma Da (Maya) và vua Tịnh Phạn (Suddhodana) hơn 40 tuổi thì họ mới có người con trai đầu lòng.
2.     Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of metaphor, legend, emphases, etc.
When looking deeply at the Buddha’s Birthday, we see specific characteristics of Buddhism have very many important meanings for us to learn. The Jàtaka[10] story stated that queen Maya and king Suddhodana were over 40 years old when they had their first son.
Thông thường, vợ chồng sống chung và ăn ở với nhau một năm hay nhiều năm, dù trai hay gái, họ rất mong có một hay hai người con để nối dõi tông đường và nối dõi sự nghiệp tổ tiên tâm linh và tổ tiên huyết thống. Khi có đứa con đầu lòng chào đời, thì vợ chồng và gia đình hai bên nội ngoại của họ rất ư là sung sướng vì đứa con là kết quả của tình yêu đôi lứa.
 Normally, spouses live and eat together about one year or many years, whether girl or boy, they expect to have one or two children to maintain the continuity of a family temple and to maintain the career of spiritual ancestors and blood ancestors. When their first child is born, spouses and families of maternal and paternal sides are very happy because the child is the result of the couples’ love.           
Hoàng hậu Ma Da và vua Tịnh Phạn (Suddhodana) mong muốn có con để tiếp nối sự nghiệp hoàng cung của dòng họ Thích-ca (Sakya). Sự mong muốn của họ đã được thành tựu, tức là hai người đã có đứa con đầu lòng. Ba ngày sau khi thái tử được sinh ra, tiên A Tư Đà (Asita) được triệu vào cung và làm lễ đặt tên cho thái tử là Tất Đạt Đa (Siddhartha); Tất Đạt Đa, có nghĩa là con người toại nguyện có đầy đủ phước đức và trí tuệ có khả năng trở thành vị xuất Sĩ an lạc, tỉnh thức và thảnh thơi, đem đạo vào đời và giúp đời thêm vui, bớt khổ.
Queen Maya and king Suddhodana desired to have their child to connect the royal career of Sakyan clan. Their desire was fulfilled, that is to say, they had their first-born son. Three days after the prince was born, the seer Asita was invited to enter the palace, and he performed a ceremony of naming the prince Siddhartha; Siddhartha, means the the fully-contented man who has sufficiency of merit, virtue, and wisdom has the ability to become a peaceful, awakened, and relaxed monastic, to bring Buddhism into life, and to help add joy, and reduce suffering to life.
Trong thời gian mang thánh thai, vua và hoàng hậu, cùng các người hoàng tộc trong triều đình, luôn làm các việc thiện, nói việc thiện, và suy nghĩ việc thiện để huân tập, xông ướp, và tưới tẩm vào tâm thức trong trắng của thai nhi. Các việc thiện này có khả năng thấm sâu vào tâm thức của thai nhi, giúp thai nhi có khả năng nuôi dưỡng, phát triển, và tạo thành những chất liệu bình đẳng, hòa bình, từ bi, và trí tuệ về sau. Những ý nghĩ và việc làm của họ mang nhiều ý nghĩa rất tích cực và thiết thực đem lại nhiều an lạc và hạnh phúc cho tự thân, cho thai nhi, và cho số đông. Đây là bài giáo dục thai nhi đầu tiên vô cùng giá trị và quý báu cho nhân thế.[11]  
        During the time of bearing the holy pregnancy, the king and the queen, along with royal people in their royal court, always did good things, said good things, and thought of good things to permeate, to penetrate, and to water them into the fetus’s immaculate consciousness. These good things have the ability to penetrate deeply into the fetus’s mind and consciousness, to help the fetus have the capability to nurture, to develop, and to form the attributes of equality, peace, loving-kindness, compassion, and wisdom later. Their thoughts and acts, which contained many meanings very positively and practically, brought much peacefulness and happiness to themselves, to the fetus, and to the many. This is the first fetal education – extremely valuable and precious for human life.[12]  
Như vậy, chúng ta thấy trong thời gian mang thai, cả vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và hoàng hậu Ma Da (Maya) cùng quần thần trong hoàng tộc đều nỗ lực tu tập bằng cách làm những điều phước thiện, và đem lại nhiều điều lợi ích cho tự thân và cho tha nhân. Thực hiện được như vậy, hoàng tộc trong triều đình của họ không những đạt được hạnh phúc, mà thai nhi còn đạt được an vui. Đây là những chất xúc tác mạnh mẽ, an lạc, và hạnh phúc tạo thành và nuôi dưỡng hạt giống thánh thai nẩy mầm, đức Phật sơ sinh ra đời.[13] Kinh Pháp cú kệ số 194 ghi:
Thus, we see during the time of bearing the fetus, both the king Suddhodana and the queen Maya, along with mandarins in their royal household, attempted to cultivate by doing meritorious and good things, and bringing many benefits to themselves and to the many. Practicing like this, families not only achieve happiness, but the fetus also obtains peaceful joy. This is the catalyst of power, peacefulness, and happiness constituting and nurturing the seed of the holy fetus to sprout, an infant Buddha was born.[14] Dhammapada, Verse No. 194 states:
           “Hạnh phúc thay đức Phật giáng sinh,
Hạnh phúc thay giáo pháp cao minh,
Hạnh phúc thay Tăng đoàn an lạc,
Hạnh phúc thay Tứ chúng đồng tu.
 “Happy is the birth of the Buddha,
Happy is the noble Dhamma,
Happy is the harmonious Sangha,
Happy is the Four Assemblies of cultivating together.”
Trong một vài Kinh văn Phật giáo, để diễn tả sự ra đời kỳ diệu của một đức Phật, cụ thể là đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người viết sử sau này thường thêm thắt những khía cạnh huyền thoại, trang trọng, tôn kính, thiêng liêng, và mầu nhiệm của Ngài. Những khía cạnh này bao gồm nhiều ý nghĩa ẩn dụ dùng để diễn tả khi hoàng hậu Ma Da (Maya) mang thánh thai; người ta nói rằng bà nằm mộng thấy Bồ tát Hộ Minh (Vessantara, Sumedha) từ trên cung trời Đâu Xuất (Tusita), cỡi voi trắng sáu ngà, và đi vào hông bên phải của bà, từ đó bà mang thai.[15]     
In Buddhist Texts, to describe the marvelous birth of a Buddha, namely Lord Sakyamuni Buddha, historians later often embellished the aspects of his legend, solemnity, reverence, sacredness, and miracle. These aspects, which contained the metaphorical meanings, were used to describe when Queen Maya had her holy pregnancy; it is said she had a good dream in which she saw the Bodhisattva Vesantara come from the Tusita heaven, riding a white elephant with six tusks, and entering her righ hip, whereupon she became pregnant.[16]
Cung trời Đâu Suất là nơi Bồ tát Hộ Minh (Vessantara)[17] xuất phát và giáng trần; Ở điểm này, chúng ta thấy rằng Phật giáo cũng chấp nhận các khái niệm cõi trời và chư thiên.[18]
The Tusita heaven is the place from where Bodhisattva Vesantara[19] starts and descends; At this point, we see that Buddhism also accepts the concepts the realms of heaven and gods.[20]
Theo quan điểm đặc thù của Phật giáo, trời cũng là một chúng sanh ở dạng phước báo. Tùy theo nghiệp tạo tác thiện và bất thiện, chúng sanh có thể sanh về cõi trời, cõi người, A Tu La (Asura), địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh.
 According to the specific viewpoints of Buddhism, God is also a being in the form of the blessed rewards. Depending on their actions which creat good and no good, living beings can be born in the realms of heaven, those of human beings, Asuras, hells, hungry ghosts, and those of animals.
Ở cõi trời, chúng sinh chỉ trải nghiệm qua sự sung sướng mà thôi. Điều đó thật là khó cho họ để tu tập. vì họ chỉ biết việc hưởng thụ, nên họ không có động lực để thoát khỏi khổ đau.  
Ở cõi người, chúng sinh có khổ có sướng. Đó là cơ hội tốt nhất cho họ tu tập, hướng tới giác ngộ và giải thoát, giúp mình, và giúp người.
Ở cõi A Tu La, chúng sanh rất sân giận và nóng nảy dễ gây chiến tranh.
Ở cõi địa ngục, chúng sinh bị hành hình, tù tội, và bị tra tấn.
Ở cõi ngạ quỷ, chúng sinh luôn bị run lạnh,  đói, khát, tham lam, và chấp thủ.
Ở cõi súc sanh, chúng sanh ăn tươi và nuốt sống.
Trong ba cõi địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh, chúng sanh luôn bị hành hạ và khổ sở, chúng hiếm có hoặc không có cơ hội và thời gian để tu tập.    
In the realm of heavens, beings experience only happiness. It is very hard for them to cultivate. They only know enjoyment, so they have no motivation to escape from suffering.
In the realm of human beings, beings have both suffering and happiness. It is the best opportunity for beings to cultivate, to progress to enlightenment and deliverance, to help oneself and help others.
In the realm of Asura, beings are very angry and hot-tempered. It is easy for them to cause war.
In the realm of hells, beings are executed, imprisoned, and tortured.
In the realm of hungry ghosts, beings are trembling, hungry, thirsty, desiring, and grasping.
In the realm of animals, beings make mincemeat of one another.
In three realms of hells, hungry ghosts, and animals, beings are always tortured, suffering, and miserable. They rarely have or have no time and no opportunity to cultivate.
Thật vậy, theo giáo lý thiết thực của Phật giáo, các chúng sanh trong sáu cõi đều do thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ý nghiệp tạo tác ngay trong cuộc sống hiện tại. Tạo nghiệp thiện, chúng sinh tái sinh vào cõi trời hoặc cõi người; tạo nghiệp bất thiện, chúng sinh tái sinh vào các cõi A Tu La, địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh.
Indeed, according to practical teachings of Buddhism, living beings in the six realms are created by their own bodily actions (Karma), verbal actions, and mental actions right in the present life. Creating good actions, beings are reborn in the realms of heaven or those of human beings; creating non good actions, beings are reborn in the realms of Asuras, hells, hungry ghosts, and animals.
Chúng sinh ở cõi trời có phước báo hơn chúng sinh ở các cõi khác. Vì hạnh nguyện độ sinh, từ cõi trời Đâu Suất (Tusita), Bồ Tát Hộ Minh (Vessantara) thị hiện nơi cõi Ta bà này bằng cách đầu thai làm con của vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và hoàng hậu Ma Da (Maya), tức thái tử Tất Đạt Đa.
Beings in heaven have more blessings than beings in other realms. Out of his vow to help beings, from the realm of Tusita heaven, Bodhisattva Vesantara was present in this earth by way of being reincarnated as the king Suddhodana’s and queen Maya’s son, namely prince Siddhārtha.



Theo triết lý tương tức và duyên sinh của Phật giáo, tinh cha, noãn sào của mẹ, tử cung, sự ân ái và giao hợp của cha mẹ, thời gian thụ thai, mang thai, v.v… của người mẹ đều là những yếu tố rất quan trọng và cần thiết để hình thành thai nhi. Bên cạnh các yếu tố ấy, trong quá trình hình thành và phát triển, thai nhi còn phải phụ thuộc vào các yếu tố cần thiết khác nữa như ánh sáng, không khí, hơi ấm, sự chuyển động, chất bổ dưỡng, v. v., đặc biệt là phụ thuộc vào sự có mặt và sự liên kết lại với thức tái sinh (Patisandhi)[21] hay hương ấm (Gandhabha).[22]
According to philosophy of interdependence and co-arising of Buddhism, the father’s sperm, the mother’s ova, her womb, the parents’ intimacy, the time of her conception, pregnancy, etc., are very important and necessary factors to form a fetus. Besides those factors, in the process of forming and developing, the fetus must still depend on other necessary elements such as light, air, warmth, motion, nutrition, etc., especially on the presence and the re-link with reincarnation consciousness (Patisandhi viññana)[23] or Gandhabha.[24]  
Trong nhiều đời quá khứ, hiện tại, và tương lai, tùy theo nguyện lực và nghiệp lực của mỗi người, thức này kết nối, hòa nhập, vây mượn, và gá vào năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, và thức) của cha và của mẹ để hình thành một thai nhi. Trong chu kỳ sinh, tử, và tái sinh, khoảng chín tháng và mười ngày, thai nhi được hình thành, tiếp nối, lớn lên, già, chết, và tiếp tục chuyển tiếp sang một đời khác, và cuối cùng được sinh vào một đời sống mới.
In many lives of the past, the present, and the future, depending on the powerful vow and powerful Karma (action) of every human being, this consciousness connects, unites, integrates, borrows, and rely on five aggregates (form, feeling, perception, volitional formation, consciousness) of parents to form a fetus. In the cycle of birth, death, and rebirth, about nine months and ten days, the fetus will be created, linked, grown up, gotten old, passed away, and continue transferring to an another life, finally being born into its new life.
Trong trường hợp ra đời của Bồ-tát Tất-đạt-đa (Bodhisattva Siddhārtha), với đời sống chuyển tiếp cuối cùng của Bồ tát Hộ Minh (Vessantara),[25] vì nguyện lực giáo hóa và cứu độ chúng sinh, từ cung trời Đâu-suất (Tusita), Bồ tát Hộ Minh hiện thân làm đức Phật hài nhi. Để thực tập và tưởng nhớ công hạnh giáo hóa chúng sinh của Ngài, trong mùa lễ Phật đản hằng năm, chư vị xuất sĩ và cư sĩ thường xưng tán và lễ lạy Ngài như sau:
In the case of the birth of Bodhisattva Siddhārtha, with finally transitional life of Bodhisattva Vessantara,[26] out of the powerful vow of teaching and helping living beings, coming from the Tusita heaven, the latter embodied as the baby Buddha. To practice and to remember his conduct and vow of teaching living beings, in the season of the annual Vesak ceremony, celebrating the Buddha’s Birthday, monastics and lay people usually praise, kowtow, and prostrate themselves in front of Him:
Bồ tát Hộ Minh, từ trên cung trời Đâu Suất, báo mộng hoàng hậu Ma Da, cỡi voi trắng sáu ngà, và đi vào hông bên phải của mẹ. Hoặc, cậu bé sơ sinh Tất-đạt-đa, sinh ra ở dưới cây Vô Ưu, thị hiện ra đời để đem lại an lạc và hạnh phúc cho số đông, được chín rồng phun nước, Ngài đi bảy bước, trên bảy đóa hoa sen, và dõng dạc nói rằng: Trên trời dưới đất, chỉ có con Người giác ngộ và tỉnh thức là tôn quý. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.[27]
Bodhisattva Vessantar[28], who comes from the realm of Tusita heaven, imparts a good omen in a dream to queen Maya, rides a white elephant with six tusks, and enters her right hip. Or a newborn baby named Siddhartha, who was born under a Sorrowless Tree, is present in the world to bring peacefulness and happiness to the many, is sprayed water by nine dragons, walks seven steps on seven lotuses, and bravely says: In heaven and on earth, only an Awakened and Enlightened Person is noble. All living beings have Buddha nature. 



Tất cả những từ ngữ đề cập ở trên,voi,màu trắng, sáu ngà, bên phải, cây, vô ưu, con số 9, rồng, nước, con số 7, bước, hoa sen, con người,đều là những biểu tượng ẩn dụ và nhấn mạnh. Hông bên phải là biểu tượng huyền thoại; huyền thoại ở đây có nghĩa là câu chuyện hàm chứa nhiều ý nghĩa trang trọng, tôn kính, thiêng liêng, vi diệu, và mầu nhiệm.
All the above-mentioned words, such as elephant, white, six tusks, right hip, tree, sorrowlessness, figure 9, dragon, water, the number 7, step, lotus, person (Atman), are the symbols of metaphor and emphasis. The right hip is the symbol of legend; the legend here means that the story involves many solemn, respectful, sacred, marvelous, and wonderful meanings.     
Voi tượng trưng cho sức mạnh, vững chãi, thảnh thơi, thong dong, và tự tại; màu trắng chỉ cho sự tinh khiết, trong sạch, không ô nhiễm; sáu ngà tượng trưng cho sáu hạnh nguyện đích thực “Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí tuệ” của một vị Bồ tát đi vào đời để cứu độ chúng sanh. Bên phải là bên thuận theo chiều kim đồng hồ, đi từ hướng Đông sang hướng Nam, hướng Tây, và hướng Bắc. Bên phải chỉ cho hướng đi thuận duyên, hướng đi đem đạo vào đời để giúp đời thêm vui bớt khổ. Bên phải có nghĩa là bên tốt, là lẽ phải, là chân lý… Sinh ra hông bên phải của hoàng hậu Ma Da mang ý nghĩa tượng trưng huyền thoại; thực ra, thái tử Tất-đạt-đa sinh ra bình thường như bao nhiêu người khác trên thế gian này.[29]
 Elephant represents power, steadiness, calmness, carefeeness, and freedom; White symbolizes purity, cleanness, non-pollution; six tusks represent the six authentic conduct vows (alms-giving, precepts protection, endurance, diligence, meditative concentration, and wisdom) of a Bodhisattva entering his or her life to save living beings. Right side is the clockwise oriented side, going from the East to the South, the West, and to the North. The right side represents the direction of favourable conditions, that of bringing the Buddha’s teachings to life in order to help add happiness and relieve suffering to life. The right means the good, reason, the truth, etc. Being born on the right side of Queen Maya’s hip brings the meanings to the mythological symbol. In fact, the prince Siddhārtha was normally born as everyone else in the world.[30] 
Chúng ta biết hông bên phải có thật đối lại với hông bên trái mang ý nghĩa tượng trưng chỉ cho sự thuận duyên, hợp với chân lý, và lẽ phải. Điểm này được nhấn mạnh và nhắc nhở chúng ta rằng là con người tứ đại (đất – chất cứng, nước – chất lưu chuyển, lửa – chất nóng, và gió – chất chuyển động) và năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, và thức) như thái tử Tất-đạt-đa (Siddhārtha), mỗi chúng ta đều có khả năng tu tập, giác ngộ, và giải thoát như Ngài nếu mỗi người cố gắng sống đời sống chánh niệm và tỉnh giác, vững chãi và thảnh thơi trong đời sống hằng ngày. Ngoài con người ra, không có một đấng thần linh nào có thể thay thế con người được.
We know the right side hip is true opposite to the left side hip bringing symbolic meanings to show the favorable conditions, suitable to truth and reason. This point is emphasized and reminds us that as person of four elements (earth – hard substance, water – circulating substance, fire – heat substance, and wind – movement substance) and five aggregates (form, feeling, perception, mental formation, and consciousness) like the prince Siddhārtha, each of us will have the ability to cultivate, to obtain enlightenment, and to be freed like him if each person tries to live her or his life of mindfulness and awareness, steadiness and calmness in the daily life. No one or no god can replace the person in this effort.
Vị Bồ tát Hộ Minh (Vessantara)[31] cỡi voi trắng sáu ngà đi vào hông bên phải của hoàng hậu Ma Da; hông bên phải mang ý nghĩa tượng trưng, ẩn dụ,nhấn mạnh rằng người giác ngộ và tỉnh thức nào muốn đem đạo vào đời để giáo hóa chúng sanh, thì phải thực tập sáu hạnh nguyện độ sanh: “Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí tuệ.” Khi sáu hạnh nguyện độ sanh được thực hiện hoàn hảo và đầy đủ, vị Bồ tát có khả năng đem đạo vào đời để giúp đời thêm vui và thêm phúc.
Bodhisattva Vessantara,[32] who rode the white elephant with six tusks, entered the right side hip of the Queen Maya; the right side hip brings the meanings of symbol, metaphor, and emphasizes that an enlightened and awakened One that wants to bring the Buddha Dharma to life in order to teach human beings has practiced the six conduct vows to save living beings: “Alms-giving, precepts protection, endurance, diligence, meditative concentration.” When the six conduct vows of saving living beings are performed perfectly and sufficiently, the Bodhisattva has the ability to help add joy and happiness to life.       
Vị Bồ tát ở đây cụ thể chỉ cho thái tử Tất-đạt-đa (Siddhārtha), sinh ra, lớn lên, xuất gia, tu hành, đắc đạo, hoằng pháp, và độ sanh ngay tại đời này. Hòa nhập vào đời để giáo hóa chúng sanh, nhưng Ngài không bị đời làm ô nhiễm, thân và tâm của Ngài luôn giữ thanh thản, chánh niệm, vững chãi, trong sạch, và tinh khiết. Để noi gương, áp dụng, và thực hành hạnh nguyện giáo hóa chúng sanh của đức Thế Tôn, thì mỗi chúng ta phải là mỗi hành giả an lạc, mỗi chúng ta là mỗi vị Bồ tát đích thực, cùng nhau đem đạo vào đời để giúp đời an vui và hạnh phúc.
The Bodhisattva here is personified and actualized in the prince Siddhārtha, who was born, grew up, left home for a religious life, led his monastic life, obtained enlightenment, preached the Dharma, and saved living beings right in this life. Integrating into the world to teach human beings, but he is not polluted by the world, his body and mind always uphold calmness, mindfulness, steadiness, cleanness, and purity. To follow the World-Honored One’s example, to apply, and to practice His conduct vow of teaching human beings, each of us is each peaceful practitioner, each of us is an authentic Bodhisattva, bringing Buddhism to the world in order to help it be peaceful and happy.       
         

(Bồ tát Hộ Minh[33]Vessantaratiền thân đức Phật Thích Ca)
(Bodhisattva Vessantara[34]the past life of Sakyamuni Buddha)

Nhìn ý nghĩa phân tích, chúng ta biết Bồ tát tiếng Phạn là Bodhisattva gồm có hai từ BodhiSattva; Bodhi có nghĩa là tỉnh thức, giác ngộ, và Sattva có nghĩa là con người. Vậy Bồ tát hay Bodhisattva có nghĩa là con người tỉnh thức và giác ngộ có khả năng khơi dạy và đánh thức Phật tánh của người khác tỏa sáng, có khả năng khơi dạy và tưới tẩm hạt giống giác ngộ của người khác nẩy mầm, và có khả năng hướng dẫn người khác tu tập, và hướng tới giác ngộ và giải thoát như mình.
Looking at the meaning analytically, we know that Bodhisattva in Sanksrit consists of two words Bodhi and Sattva; Bodhi means awakening, enlightenment, and Sattva means a being or a person. Thus, the Bodhisattva means that the awakened and enlightened One has the ability to awake himself/ herself and to awaken other people’s Buddha nature, has the ability to awake and to water the seeds of their enlightenment to allow them to germinate, and has the ability to instruct them to cultivate, and to lead them to enlightenment and deliverance like him/herself.
Đây là điểm đặc thù của đạo Phật. Xưa cũng như nay, hễ ai có đầy đủ duyên lành tu tập Phật pháp thì chính họ có thể đạt được an vui, hạnh phúc, giác ngộ, giải thoát, và bình đẳng như nhau. Thực vậy, đạo Phật luôn tôn trọng và khẳng định con người là tối thắng
This is the specific point of Buddhism. In ancient time as well as in present time, those who have enough proper conditions to cultivate themselves can achieve peaceful joy, happiness, enlightenment, freedom, equality alike. Indeed, Buddhism always observes and affirms that people are supreme.      
Trong âm Hán Việt, chữ “Hộ” trong “Hộ Minh” là động từ có nghĩa là giữ gìn, bảo hộ, duy trì, phát triển… ; chữ “Minh” trong “Hộ Minh” là danh từ có nghĩa là sáng suốt, sáng tỏ, sáng rõ, trong sạch, tinh khiết, tuệ giác, chiếu sáng, tỏa sáng…Hộ Minh (Vessantara)[35] là đạo hiệu của một vị Bồ tát giáng trần, có nghĩa là Người có khả năng giữ gìn ngọn đèn tuệ giác để soi sáng cho thế gian, để đem lại an lạc và hạnh phúc đích thực cho thế gian. Người này là hiện thân của thái tử Tất Đạt Đa, tức là hiện thân đức Phật Thích Ca Mâu Ni, có khả năng đem lại trí tuệ, tình thương, bình đẳng, và hòa bình cho số đông trên khắp hành tinh này.
In the Sino-Vietnamese, the word HộinHộ Minh is a verb meaning to keep, to protect, to maintain, to develop, etc.; the word MinhinHộ Minhis a noun meaning lucidity, brightness, clear light, purity, purification, insight, illumination, shine, etc. Hộ Minh (Vessantara),[36] the Dharma title of Bodhisattva, who descends to earth, means that One has the ability to keep the insightful lamp to shine for the world, to bring authentic joy and happiness to the world. This person, who is embodiment of the prince Siddhārtha, namely that of Sakyamuni Buddha, has the ability to bring wisdom, love, equality, and peace to the many all over the planet.                
Nhân tiện đây, chúng ta cũng tìm hiểu ý nghĩa của cụm từ Hán Việt “thị hiện đản sanh”; “thị hiện” có nghĩa là có mặt ở đây; “đản sanh” có nghĩa là sự ra đời của một vị Thánh, cụ thể là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. “Ở đây” chỉ cho thế giới Ta bà này, nơi mà chúng ta đang sống có nhiều thiên tai, chiến tranh, cướp bóc, tranh giành …xảy ra. Tất cả các điều ấy đều do lòng tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… của con người tạo ra.
On this occasion, we also learn about the meanings of the Sino-Vietnamese phrase “thị hiện đản sanh”; “thị hiện” means to be present in here; “đản sanh” means the birth of a holy One, namely the Sakyamuni Buddha. “Ở đây,” meaning “here,” indicates this earth, where we have been living, there are many calamities, wars, robberies, struggles, etc., happening. All those things are created by human hearts of lust, anger, delusion, arrogance, doubt, wrong view, etc.
Đức Phật và đạo Phật có mặt trên cuộc đời này là để giảng dạy và giáo hóa cho con người biết tu tập, biết chuyển hóa tham, sân, si…, biết bỏ ác làm lành, biết hướng thượng và hướng thiện bằng cách áp dụng và thực hành lời Phật dạy vào trong đời sống hằng ngày của mình, sống đời sống chánh niệm và tỉnh giác, vững chãi và thảnh thơi để đem lại an lạc và hạnh phúc cho số đông ngay tại thế gian này.
The Buddha and Buddhism that have been present in this world are to teach and to instruct people to know how to cultivate, to transform desire, anger, delusion, to give up evil, to do good, to lead them to upper, righteousness, and good by practicing and applying the Buddha’s teachings into their daily lives, to live their lives of mindfulness and awakening, steadiness and liberation to bring peacefulness and happiness to the many right here in this world.
Cũng vậy, vì thương chúng sanh, vì đem lại an lạc và hạnh phúc cho chư thiên và loài người, đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện ra cõi Ta bà này, tức là có mặt ở đây và bây giờ để lắng nghe và chia sẻ tiếng đau thương, than khóc, và khổ đau của chúng sinh do vì chiến tranh và tội phạm. Người giúp cho chúng sanh thấy rõ hướng đi hòa bình, bình đẳng, thương yêu, và tôn trọng lẫn nhau bằng cách thực hành con đường thánh có tám làn xe chạy (the eightfold lane highway), cụ thể là “cái thấy chân chánh, suy nghĩ chân chánh, lời nói chân chánh, việc làm chân chánh, nghề nghiệp chân chánh, siêng năng chân chánh, nhớ nghĩ chân chánh, tập trung và duy trì thân tâm an lạc chân chánh.”[37]
Likewise, out of loving living beings, out of bringing peacefulness and happiness to gods and to humankind, the Lord Sakyamuni Buddha has been embodied in the realm of this world, that is to say, present in the here and the now to listen and to share their grief, mourning, and suffering du to war and crime. He helps them to clearly see the way leading to peace, equality, love, and mutual respect by practicing the noble path with the eightfold lane highway, namely “Right View, Right Thought, Right Speech, Right Action, Right Livelihood, Right Effort, Right Mindfulness, and Right Concentration.[38]     
Tám làn xe chạy này hỗ trợ với nhau và có nhiều mối tương quan và tương duyên với nhau rất mật thiết; một là tám và tám là một. Thực vậy, con đường thánh có tám lane này có khả năng xây dựng trí tuệ, tình thương và hòa bình đích thực cho số đông, và có khả năng đưa chúng sanh tới bờ an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay cuộc đời này.         
This eightfold lane highway is mutually supportive and has many interdependent relations with each other very closely; one is eight and eight is one. Indeed, the noble path with the eightfold lane has ability to build wisdom, love, and authentic peace for the many, and has the ability to lead living beings to the shore of peaceful joy and happiness for oneself and for others right in this life.
Qua những gì thảo luận trên đây, chúng ta thấy các cụm từ Bồ tát Hộ Minh (Vessantara), cõi trời Đâu Suất, voi trắng sáu ngà, hông bên phải, và thị hiện được trình bày xong. Tiếp đến, kính mời quý vị cùng nhau tìm hiểu những từ ngữ tiếp theo như cây Vô Ưu, chín rồng, phun nước, bảy bước, hoa sen, dõng dạc nói rằng, và cái ta.
Through the above discussion, we see the phrases of the Vessantara Bodhisattva (Bồ tát Hộ Minh), the realm of Tusita heaven, the six-tusk white elephant, the hip of right side, and embodiment have been presented. Next, you are happily invited to together learn about the following words, such as the sorrowless tree, nine dragons, sprinkling water, seven steps, lotuses, strongly saying, and true self.       



Khi sinh ra dưới cây Vô Ưu (Ashoka, Sorrowless Tree), Tất Đạt Đa (Siddhārtha) sơ sinh hay đức Phật sơ sinh liền đi 7 bước trên 7 hoa sen, tay phải chỉ lên trời, tay trái chỉ xuống đất, dõng dạt nói rằng: “Trên trời dưới đất chỉ có cái Ta, Phật tánh, tức con người giác ngộ là tôn kính và quý trọng. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh.[39]
When being born under the Sorrowless Tree (Ashoka), the newborn baby named Siddhārtha or newborn Buddha took seven steps on seven lotus flowers, his right hand pointed out to sky, his left hand pointed down to earth, and strongly said: “All over the world, only true self, Buddha nature, that is, the enlightened One, is esteemed and respected. All living beings have Buddha nature.[40]  
Như quý vị biết tất cả các từ và cụm từ cây, Vô Ưu, chín, rồng, phun, nước, bảy bước, hoa sen, dõng dạc nói rằng, cái ta, … đều hàm chứa các ý nghĩa biểu tượng, ẩn dụ, và nhấn mạnh.   
As you know all the words and phrases of tree, sorrowlessness, nine, dragon, sprinkling, water, seven steps, lotus, strongly saying, etc., contain the meanings of symbols, metaphors, emphases.         
Cây ở đây được ẩn dụ cho hoàng hậu Ma Da hoan hỷ, trên 40 tuổi rồi mới sanh con,[41] vị thánh hài nhi, tức đức Phật sơ sinh, con người toại nguyện có đầy đủ phước đức và trí tuệ; trong vô ưu có nghĩa là không; Ưu có nghĩa là ưu phiền, buồn phiền, phiền muộn, phiền não, … Ưu có nghĩa là không phiền muộn, không phiền não, không ưu phiền… Như vậy, cây vô ưu có nghĩa là cây không phiền muộn, không phiền não, và không ưu phiền, được minh họa cho hai mẹ con thánh Mẫu Ma Da và thái tử Tất Đạt Đa (Siddhārtha) sơ sinh.
The tree here symbolizes Queen Maya, who was over 40 years old, gave birth to an only son,[42] a holy infant, the newborn baby Buddha, a perfectly satisfied Person with sufficiency of virtue and wisdom; Less in sorrowlessness means empty or void; Sorrow means regret, sadness, trouble, affliction, defilement, etc.; Sorrowlessness means non-regret, non-sadness, non-affliction, non-delusion, etc. Thus, the sorrowless tree means the tree without regret, sandness, affliction, and defilement, and it is the symbol both for the holy Mother, Maya, and her newborn baby Siddhārtha
Vì không bị phiền não và ưu phiền chế ngự, nên thánh Mẫu Ma Da có khả năng hiến tặng cho trái đất này một con người tỉnh thức, giác ngộ, và giải thoát trọn vẹn, tức đức Phật lịch sử hiệu là Thích Ca Mâu Ni sau này. Vì không bị phiền não và ưu phiền chế ngự, nên thái tử Tất Đạt Đa đủ duyên sinh ra trong đời, lớn lên trong đời, xuất gia, tu tập, giác ngộ, và đem lại an lạc và hạnh phúc cho muôn loài.    
Out of not being overcome by defilement and sorrow, the holy Mother, Maya has the ability to dedicate to earth a person of perfect awakening, enlightenment, freedom, namely the historic Buddha later named Sakayamuni. Out of not being subdued by defilement and affliction, the prince Siddhārtha had good conditions to be born in the world, to leave his royal family for a monastic life, to cultivate, to enlightenment, and to bring peacefulness and happiness to all living things and living beings.   
Theo cái nhìn thiền quán và tương tức, hạnh phúc của người mẹ chính là hạnh phúc của người con, và hoan hỷ của người mẹ chính là hoan hỷ của người con, của hoàng thân quốc thích, và của bá dân thiên hạ…Thánh Mẫu Ma Da hoan hỷ, nuôi dưỡng thánh thai, sinh ra một Thánh hài nhi từ bi, không ưu phiền,[43] có mặt trên thế gian này để đem lại tình thương và hòa bình cho pháp giới chúng sinh.
According to contemplative and interdependent vision, the happiness of a mother is mainly her son’s happiness, and the joy of the mother is mainly joy of her child, that of her royal nation, and that of her people. The holy Mother, Maya, who was happy to nourish her holy fetus, gave birth to her holy and compassionately newborn baby, whose body and mind were not defiled by lust, anger, delusion,[44] etc., who became present in the world to bring infinite love and peace to the realms of living things and beings.
Một khi hạt giống thánh, hạt giống an vui, và hạnh phúc có trong con người thánh, con người an vui và hạnh phúc, thì các hạt giống này và con người này có thể đem lại an vui và hạnh phúc đích thực cho nhân loại trên khắp hành tinh này.
Phần số 2 này sẽ được trình bày ở phần số 9: Nhìn Phật đản qua khía cạnh hòa bình, mời quý vị theo dõi phần dưới.
Whenever the seeds of holiness, peaceful joy, and happiness are inherent in the person of holiness, joy, and happiness, these seeds and this person can bring authentic joy and happiness to living things and living beings all over the planet.
Part 2 will be presented in part 9: Looking at the Buddha’s Birthday through aspect of peace, I would like to invite you to follow the following part of this writing.

3.     Nhìn Phật đản qua khía cạnh biểu tượng hoa sen
Sinh ra dưới cây Vô Ưu, đức Phật sơ sinh bước đi 7 bước trên 7 hoa sen.[45] Các bước chân đi của Ngài đều có các đóa hoa sen nâng đỡ. Những bước đi này đích thực là những bước đi an lạc và hạnh phúc cho số đông nhằm báo hiệu đức Thế Tôn xuất hiện ra đời.
3.     Looking at the Buddha’s Birthday via the symbols of the lotus flowers
Being born under the sorrowless tree, the newborn baby Buddha took the seven steps on the seven lotus flowers.[46] His steps are lifted up by the lotus flowers. These steps, which are authentically the steps of peace and happiness for the many, are a sign to us that the World-Honored One has been present in the world.
Bảy đóa sen hồng nâng bước tịnh,
Nở giữa đầm sen đấng từ bi.”[47]
The seven pink lotuses lift up his pure heels,
In the middle of a lotus pond the Lord of loving-kindness and compassion appears.[48]
Sen hồng ở đây tượng trưng cho sự tinh khiết, trong sạch, tỉnh thức, tỉnh giác, chánh niệm, vững chãi, và thảnh thơi. Ở ngữ cảnh này, sen tượng trưng cho đức Phật và các đức tính của Ngài. Bảy đóa sen hồng tượng trưng cho bảy đức Phật:[49]
The pink lotus here symbolizes purification, purity, awakening, awareness, mindfulness, steadiness, and freedom. In this context, the lotus symbolizes the Buddha and His virtuous characteristics. The seven pink lotuses represent for the seven Buddhas:[50]
Đức Phật Tỳ Bà Thi (Vipassì Buddha), đức Phật Thi Khí (Sikhì Buddha), đức Phật Tỳ Xá Phù (Vessabhù Buddha), đức Phật Câu Lưu Tôn (Kankusandha Buddha), đức Phật Câu Na Hàm (Konàgamana Buddha), đức Phật Ca Diếp (Kassapa Buddha), đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni Buddha). Trước sau như một, bảy đức Phật này đều có đầy đủ các đức tính đặc thù trên.   
Vipassì Buddha, Sikhì Buddha, Vessabhù Buddha, Kankusandha Buddha, Konàgamana Buddha, Kassapa Buddha, and Sakyamuni Buddha. Consistently before and after like one, the seven Buddhas are full of the above specific characteristics.   
Bước tịnh” có nghĩa là bước đi an lạc, thanh tịnh, bình đẳng, tình thương, và hòa bình, tiêu biểu cho bước đi an vui và hạnh phúc, vững chãi và thảnh thơi của đức Phật, đạo Phật, các đệ tử của Ngài.
The pure step,” which means the step of peacefulness, purity, equality, love, and peace, represents the peaceful and happy, steady and light-hearted steps of the Buddha, Buddhism, and His disciples.
Ở câu thơ thứ hai, ta bắt gặp các từ đầm sen, sen, Đấng từ bi; đầm được hiểu là thế gian; sen được ẩn dụ cho Đấng từ bi, tức đức Phật, Người có tình thương yêu bao la và rộng lớn của Ngài đối với chúng sanh muôn loài.
In the second verse, we encounter the words the lotus pond, the Lord of loving-kindness and compassion; the pond is understood as the world; the lotus symbolizes the Lord of loving-kindness and compassion, namely the Buddha, who has His immense and infinite love toward living things and living beings.
Khi đề cập tới đầm sen, chúng ta nghĩ tới đất, nước, không khí, ánh sáng…đặc biệt là bùn trong ao. Sen mọc trong đầm, trong bùn, thì sen mới có giá trị, trong sạch, và tinh khiết mặc dầu sen không bao giờ mọc trong nước sạch và đất sạch. Sen ở đây tượng trưng cho sự tinh khiết của đức Phật, cụ thể là thái tử Tất Đạt Đạ. Sinh ở thế gian, thái tử xuất gia, tu tập, giác ngộ, và thành Phật.
When referring to the lotus pond, we think of land, water, air, light, etc., especially the mud at the bottom of the pond. The lotus grows up in the pond, in the mud, it emerges valuable, pure, and clean even though it has never grown in clean water and land. This represents the purity of the Buddha, namely the prince Siddhārtha. Being born in the world, the prince left royal home for a monastic life, cultivated, obtained enlightenment, and became the Buddha.
Vì an lạc và hạnh phúc cho số đông, vì tình thương bao la rộng lớn của Ngài đối với chúng sanh, những chúng sanh nào có duyên với Ngài, học Phật, nghe pháp, và kính Tăng, thì Ngài có khả năng nhiếp hóa được chúng, và vượt thoát các tiếng khen, chê, và chỉ trích của thế gian. Nương vào thế gian để hoằng pháp, để giáo hóa chúng sanh, để đem lại an vui và hạnh phúc cho chúng sanh, đức Phật sống đời sống chánh niệm và tỉnh thức, vững chãi và thảnh thơi, an vui và hạnh phúc, phản chiếu trong cử chỉ, lời nói, ý nghĩ, và việc làm của Ngài hoàn hảo và trọn vẹn đáng được thế gian tôn kính. Nếu Ngài sinh và sống ở cõi trời, thì chúng sinh ở cõi ta bà này không biết Ngài và họ không có cơ hội để tôn sùng và tôn kính Ngài.
Out of his wish for peacefulness and happiness for the many, out of his immensely vast love toward living things and living beings, He wished to be among them, giving them a good chance to meet Him, to learn the Buddha Way, to listen to the Dharma, and to respect the Sangha, He had the ability to educate and to teach them, and was beyond blame, praise, and criticism of the world. Depending on the world to preach the Dharma, to teach sentient beings, to bring peacefulness and happiness to them, the Buddha led his life of mindfulness and awakening, steadiness and freedom, peacefulness and happiness, reflected in his perfect gestures, speech, thought, and actions, esteemed and revered by the world. If He was born and lived in a realm of heaven, living beings on earth would not have known Him and would not have had the opportunity to adore and respect Him.
Theo giáo lý Duyên sinh, sen được làm bằng các yếu tố không phải sen như bùn, nước, không khí, ánh sáng…Sống trong bùn, nhưng sen không bị bùn làm ô nhiễm; nó vươn lên tới mặt nước, vượt ra khỏi mặt nước xinh tốt, nở hoa tươi đẹp, và kết hạt tròn trịa. Cũng vậy, sống và hoằng dương chánh pháp trong đời trong suốt 80 năm, nhưng đức Phật không bị đời làm hoen ố, không bị vô minh và phiền não chế ngự, vẫn an trú vững chãi trong chánh niệm, chánh định, và chánh tri kiến để đem lại an lạc và hạnh phúc đích thực cho tự thân và cho tha nhân ngay cuộc đời này.
According to the tenet of Co-arising, the lotus is made of the various elements in which it grew, such as the mud, water, air, light, etc. Growing up in the mud, but the lotus is not defiled by the mud; it rises up to the surface of water, goes beyond the water surface freshly, blooms beautifully, and it produces full fruit. Likewise, living and spreading the Dharma in the world throughout 80 years, but the Buddha, who was not stained by the world, not controlled by ignorance and defilement, still dwelt steadily in right mindfulness, right concentration, and right clear understanding in order to bring authentic peacefulness and happiness to himself and to others right in the present life.         
Ở điểm này, bùn dụ cho phiền não tham, sân, si, các tiếng thị phi, khen chê của thế gian; sen dụ cho kết quả công phu tu tập thiền quán của đức Phật. Quá trình tu tập và hoằng dương chánh pháp là quá trình giúp hành giả nhận diện và chuyển hóa bùn thành sen, phiền não thành Bồ đề, khổ đau thành an vui và hạnh phúc… Đức Phật đã từng làm như vậy, và các đệ tử của Phật cũng phải bắt chước học và làm theo hạnh của đức Phật vậy.
At this point, the mud represents defilements of craving, anger, delusion, concepts of right, wrong, blame, and praise of the world; the lotus symbolizes the results of the Buddha’s effort, cultivation, and contemplative meditation. The process of cultivation and propagation of the Dharma is the process of helping practitioner identify and transform the mud into the lotus, defilement into Bodhi – enlightenment, suffering into peacefulness and happiness, etc. The Buddha has ever done so, and His disciples also have to imitate and to follow His virtuous conduct.
Học và thực hành Phật pháp càng nhiều, thì chúng ta càng đạt được nhiều an vui và hạnh phúc. Học và hành Phật pháp càng ít, thì ta gặt hái kết quả an vui và hạnh phúc càng ít cho tự thân và cho tha nhân. Không học Phật pháp, ta không biết đâu là con đường tốt để thực hành. Do vậy, mỗi chúng ta hãy cố gắng tu học và thực hành Phật pháp ngon lành để đem lại hoa trái an lạc và hạnh phúc cho số đông.    
The more we learn and practice the Buddhadharma, the more we obtain peacefulness and happiness; the less we learn and practice the Buddhadharma, the less we obtain the results of peacefulness and happiness for ourselves and for other people. Not learning the Buddhadharma, we do not know where the good path is to practice. Therefore, we each try to cultivate and to practice the Buddhadharma well in order to bring flowers and fruits of peacefulness and happiness to the many. 
Thật vậy, sinh trong thế giới loài người, thái tử Tất Đạt Đa có đủ duyên lành xuất gia, tu tập, giác ngộ, và thành Phật. Ở điểm này, thái tử được xem là con người hướng thượng, hướng thiện, hướng tới an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay cuộc đời này. Bắt đầu từ con người bình thường, thái tử nỗ lực tu tập hướng tới con người phi thường, tức con người giác ngộ và tỉnh thức. Sống chánh niệm và tỉnh giác, vững chãi và thảnh thơi bằng cách thực hành và an trú sâu vào thiền định, cuối cùng, Ngài trở thành bậc đạo Sư tâm linh hoàn hảo đáng được thế gian tôn sùng và quý kính. 
Indeed, being born in the world of human beings, the prince Siddhārtha had the good opportunity to leave his royal home for a monastic life, to cultivate, to attain enlightenment, and to become the Buddha. At this point, the prince was considered as the person leading to upper, to righteousness, to good, and to peacefulness and happiness for himself and for others right in this life. From his beginnings as a normal person, the prince made an effort to cultivate to lead to an extraordinary person, namely the enlightened and awakened person. Living in mindfulness and awareness, steadiness and relaxation by practicing and dwelling deeply in meditative concentration, finally, he became the perfectly spiritual Master deserving to be revered and respected by the world.    


Xinh tốt như hoa sen
Rạng ngời như bắc đẩu,
Xin quay về nương nấu,
Bậc Thầy của nhân thiên.[51]
Freshness and beauty as the lotus flower
Bright light as the Northern star
We would like to turn back and take refuge
in the Teacher of gods and human beings.[52]
Hơn nữa, sen tượng trưng cho sự tinh khiết, trong sạch, không ô nhiễm…Bùn tượng trưng cho phiền não, khổ đau, bất hạnh, nhiễm ô, hoen ố, tham, sân, … Từng bước hướng thượng và hướng thiện; tu tập là quá trình thanh lọc và chuyển hóa phiền não thành Bồ đề; khổ đau và bất hạnh thành an vui và hạnh phúc; nhiễm ô và hoen ố thành tinh khiết và trong sạch. Nếu chúng ta hiểu và thực hành như vậy, thì an lạc và hạnh phúc thấm nhuần và làm mát dịu thân tâm.
Moreover, the lotus symbolizes the purity, cleanness, spotlessness, etc. The mud represents defilements, suffering, unhappiness, smeariness, stain, greed, anger, etc. Every step leads us to good and to righteousness; cultivation is the process of purifying and transforming defilements into Bodhi – enlightenment; suffering and unhappiness into peacefulness and happiness; impurity and stain into purity and cleanness. If we understand and practice it like this, peacefulness and happiness have the ability to permeate and to make our bodies and minds cool.     
Sen quý nở đài giác ngộ,
Hào quang chiếu rạng mười phương,
Trí tuệ vượt tầm pháp giới,
Từ bi thắm nhuần non sông,
Vừa thấy dung nhan điều ngự,
Trăm ngàn phiền não sạch không,
Hướng về tán dương công đức,
Tinh chuyên đạo nghiệp vun trồng.[53]
The precious lotus blooms in the enlightened pedestal
The halo illuminates the ten directions,
Wisdom is beyond the Dharma realm,
Loving-kindness and compassion are instilled in mountains and rivers
Having just seen the Buddha’s beautiful countenance,
Hundreds and thousands of defilements are fully cleansed,
Minds are led to praising the merit
Diligence of the Dharma career is cultivated.[54]
Ở trong ngữ cảnh đức Phật đản sinh, hoa sen được mô tả ở đây là những ẩn dụ rất đẹp và rất ý nghĩa nhằm báo hiệu cho mọi người biết rằng đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Người sinh ra trong đời, lớn lên trong đời, và thành tựu trong cuộc đời bằng cách đem lại an lạc và hạnh phúc cho số đông, nhưng Ngài không bao giờ bị đời làm ô nhiễm. Cuộc đời của Ngài là bài học vô cùng giá trị và quý báu để cho các dân tộc trên thế giới học hỏi và noi theo.
In the context of the Buddha’s Birthday, the lotus flower, which is described here as a very beautiful and very meaningful metaphor, signals to us that the Sakyamuni Buddha was born in the world, grew up in the world, and succeeded in the world by bringing peacefulness and happiness to the many, but He was never defiled by the world. His life is an extremely valuable and precious lesson for the peoples all over the world to learn about and follow.  
Hơn nữa, chúng ta biết rằng hình ảnh đức Phật sơ sinh bước đi 7 bước trên 7 hoa sen, và những lời nói khẳng định mạnh mẽ của Ngài được các nhà viết sử mô tả bao gồm nhiều ý nghĩa biểu tượng và ẩn dụ thiết thực và nhấn mạnh. Hình ảnh này chỉ được tìm thấy trong đạo Phật nhằm để tôn vinh và xác nhận rằng con người tỉnh thức và giác ngộ là trên hết.
Moreover, we know that the image of the newborn baby Buddha taking the seven steps on the seven lotus flowers, and His strongly affirmative speeches are described by historians as containing many meanings of symbols and metaphors authentically and emphatically. This image, which is found in Buddhism, is to honor and to affirm that awakened and enlightened people are topmost.  


  
4.     Nhìn Phật đản qua khía cạnh con người tối thắng
Lúc sinh ra, một tay phải chỉ lên trời, một tay trái chỉ xuống đất, đức Phật sơ sinh dõng dạc nói rằng: “Trên trời dưới đất, chỉ có con người là tôn quý. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.[55]
4.     Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of the supreme person
At the time of being born, his right hand pointed up to sky, his left hand pointed down to earth, the newborn baby Buddha bravely stated: “All over the world, there is only the venerably precious person. All human beings have Buddha nature.[56]
Con người (Mānusa) ở đây chỉ chung cho con người tỉnh thức, cụ thể là đức Phật (Buddha) – Bậc tỉnh thức và giác ngộ vẹn toàn. Theo tư tưởng của đạo Phật, con người là tối thắng; ngoài con người ra, không có một đấng thần linh có thể thay thế.
Person (Mānusa) here indicates generally a person of awakening, namely the Buddha – the perfectly awakened and enlightened One. According to Buddhist thought, Person is supreme; apart from the person, no one or no god can replace him or her.
Theo tư tưởng của Bà La môn giáo (Brahmanism) hay các tôn giáo khác, Phạm thiên (Brahma) hay đấng sáng tạo là tối cao. Con người được xem là con người tôn giáo ở vị trí thấp lắm. Vì con người ở vị trí thấp, nên đôi lúc họ chỉ biết phục tùng, vâng lệnh, và tin theo bề trên. Ví dụ, nếu bề trên nói rằng người nào làm thiện thì được lên thiên đàng mãi mãi, và người nào làm điều bất thiện thì đọa địa ngục mãi mãi; những lời nói này đầy hăm dọa thiếu chánh kiến, chánh tuy duy, chánh ngữ…
According to thoughts of Brahmanism or other religions, Brahma or Creator is supreme. People are considered as people of religion in a very low position. Because people are in the very low position, sometimes they only know to comply, to obey, and to believe in superior beings. For example, if the superior being says that those who do good will go to heaven forever, and that those who do non-good will fall down to hell forever; these words, which are full of threats, show a lack of right view, right thought, right speech, etc.
Là người tu học Phật pháp ngon lành, chúng ta phải quán chiếu những lời nói đó đúng hay sai. Nếu những lời nói đó không đúng chúng ta loại bỏ ngay, hoặc nếu những lời nói đó đúng chúng ta mạnh dạn duy trì, phát triển, áp dụng, và thực hành nó vào trong đời sống hằng ngày của chúng ta để đem lại an lạc và hạnh phúc cho số đông.
As people cultivating and learning the Buddhadharma well, we must contemplate those speeches which are correct or incorrect. If those speeches are incorrect, we remove them immediately, or if they are correct, we strongly maintain, develop, apply, and practice them in our daily lives to bring peacefulness and happiness to the many.  
Theo quan điểm của đạo Phật, dù bạn làm thiện được phước sinh lên cõi trời, nhưng nếu bạn không nỗ lực tu tập để tích lũy thêm điều phước thiện, bạn sẽ gặp khổ đau như thường; hoặc dù bạn làm điều bất thiện đọa xuống địa ngục, nhưng nếu bạn cố gắng tu tập để chuyển hóa thân tâm, phước đức của bạn tăng dần, bạn sẽ sinh lên cõi trời và cõi người.
According to standpoints of Buddhism, although you do good in order to obtain blessings to be reborn in a realm of heaven, if you do not make an effort to cultivate to accumulate many additional blessings, you will get suffering as usual; or although you do non-good and fall in hell, if you try to cultivate to transform your body and mind, your happiness and virtue increase gradually, and you will be reborn in a realm of heaven and that of human beings.
Khi phúc đức của bạn tăng trưởng, bạn phải biết cách nuôi dưỡng, vun trồng, và phát triển phúc đức của bạn bằng cách làm các việc lành, giữ tâm ý trong sạch, chánh niệm, và tỉnh giác. Nếu bạn hiểu và làm được như vậy, Phật tánh trong bạn dần dần trở nên bừng sáng.
When your happiness and virtue increase, you have to know how to nurture, to cultivate, and to develop them by doing good things, keeping your mind purified, mindful, and awakened. If you understand and practice like this, Buddha nature in you gradually becomes illuminated.
Dĩ nhiên, trong quá trình tu tập và chuyển hóa thân tâm, bạn phải tinh tấn dõng mãnh trong một thời gian dài, thì bạn mới đạt được an vui và giải thoát. Nhưng bạn nên nhớ rằng thực tập Phật pháp càng vững chãi, thì bạn sẽ càng đạt được nhiều an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay trong cuộc sống hiện tại.
Of course, in the process of cultivation and transformation of your body and mind, you have to make a strong effort for a long time, you are able to obtain peacefulness and liberation. But you should remember that the more steadily you practice the Buddhadharma, the more you will obtain peacefulness and happiness for yourself and for others right in the present life. 
Thực vậy, theo cái nhìn của đạo Phật, con người đối với Phật giáo là con người chuyển hóa chuyển nghiệp ở vị trí rất quan trọng và tối thắng; Phạm thiên hay đấng sáng tạo chỉ ở vị trí bình thường mà thôi bởi vì con người có đầy đủ Phật tánh, Phạm thiên tánh, và Thượng đế tánh nếu con người biết tu tập, chuyển hóa phiền não thành Bồ đề, khổ đau thành an vui, hạnh phúc, và hướng đến giác ngộ và giải thoát; lúc bấy giờ, Phật tánh của con người và của vị giác ngộ đều bình đẳng như nhau.     
Indeed, according to Buddhist vision, person toward Buddhism is the person of transformation and Karma changing in a very important and supreme position. Brahma or Creator is only in a normal position because the person has enough Buddha nature, Brahma nature, God nature if the person knows to cultivate, to transform defilement into Bodhi, suffering into peacefulness and happiness, and leads to enlightenment and freedom; at that time, Buddha nature of the person and that of the enlightened One is equal alike.
Phật giáo xem con người giác ngộ là tối thắng; con người giác ngộ có nghĩa là con người hướng thượng và hướng thiện, hướng tới an vui và giải thoát đích thực, cụ thể là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Thực vậy, đạo Phật luôn đề cao và nhấn mạnh rằng chỉ có con người mới có khả năng tu tập và chuyển nghiệp – chuyển phàm phu thành thánh quả; chỉ có con người tỉnh thức, giác ngộ và giải thoát mới có khả năng đem lại an lạc, hạnh phúc, tình thương, và hòa bình cho tự thân và cho tha nhân ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại. Ngoài con người này ra, không có một Phạm thiên hay đấng thần linh nào có đảm trách và thay thế.
Buddhism considers an enlightened person as the uppermost; the enlightened person means the person leads to upper and good, to authentic peacefulness, and liberation, namely the Sakyamuni Buddha. Indeed, Buddhism always dignifies and emphasizes that merely the person has the ability to cultivate and to transform Karma – transform human being into Arahantship; only the person of awakening, enlightenment, and freedom has the ability to bring peacefulness, happiness, love, and peace to oneself and to others right here and right now in the present life. Apart from the person, no Brahma or no god can undertake and replace.
Để nhấn mạnh và diễn tả con người tối thắng, chúng ta biết lúc thành đạo dưới cội cây Bồ đề, đức Phật an trú vững chãi trong thiền định và quán chiếu rằng chưa đúng lúc để cho Ngài đi thuyết pháp. Lúc đó, sau 3 lần Phạm thiên Sahampati[57] thưa thỉnh đức Phật để đi thuyết pháp cho chúng sanh, đức Phật đồng ý lên đường vận chuyển bánh xe chánh pháp.
To emphasize and to describe the topmost person, we know when attaining enlightenment under the Bodhi tree, the Buddha dwelled steadily in concentration meditation, and contemplated that it was not a suitable time for Him to preach the Dharma yet. At that time, after three times Brahma Sahampati[58] has invited the Buddha to go to preach the Dharma to human beings, the Latter agreed to travel on the path to set the Wheel of the Dharma in motion.
Theo tư tưởng của Bà-la-môn (Brahmanism) và Ấn Độ giáo (Hinduism), Phạm thiên được xem là đấng tối cao của tôn giáo của họ, là vị vua trời cao nhất của các chư thiên, được tin tưởng một cách triệt để mặc dù Phạm thiên chỉ do con người suy nghĩ và tưởng tượng mà ra, và không có ai thấy đấng Phạm thiên nào cả.
According to Brahmanism and Hinduism, the Brahma that is considered as a Supreme Being of their religion is the highest king of gods, is absolutely believed in although the Brahma is only thought and imagined, no one sees any Brahma.
Tuy nhiên, Kinh điển Phật giáo, đặc biệt là Tương Ưng Bộ, Kinh Tôn Kính, Chương VI, phần II,[59] (Samyutta Nikaya VI.2- Garava Sutta- Reverence) có đề cập rằng Vị Phạm thiên này đích thân tới gặp đức Phật và thỉnh Phật trụ thế ở đời lâu dài để đem đạo và ánh sáng tuệ giác, từ bi, và trí tuệ đến cho pháp giới chúng sinh muôn loài.
Ở điểm này, chúng ta thấy có các điểm đặc thù được nhấn mạnh dưới đây như sau:
However, Sutras of Buddhism, especially Samyutta Nikaya VI.2- Garava Sutta- Reverence mentions that this Brahma himself goes to meet the Buddha and invites the Latter to live long in the world to bring the path and light of insight, loving-kindness, compassion, and wisdom to living things and living beings.  
At this point, we see that there are specific characteristics emphasized below:
a.         Phật pháp vi diệu, thiết thực hiện tại, vượt thoát thời gian, đến để thấy, đến để nghe, đến để hiểu ...
b.         Phật pháp có giá trị rất nhiều khi đức Phật được vị Phạm thiên này cung thỉnh.    
c.         Đề cao và tôn kính Phật pháp, con Người tối thắng – đức Phật Thế Tôn – Người nói pháp
d.         Thời gian thích hợp cho đức Phật để đi hoằng Pháp
f. Thỉnh và giảng pháp đúng thời, đúng nơi, và đúng đối tượng, pháp trở nên có giá trị, người nói
pháp có thêm uy lực, và người nghe pháp có thêm tín tâm.
g.         Có tinh thần tự độ và độ tha.
a. The Buddha Dharma is wonderful, practical in the present, beyond time, you come and see,
      come and listen, come and understand, etc. 
b.         His Dharma has very much value when the Buddha is invited by the Brahma.
c.         Dignifying and respecting His Dharma, the supreme Person – the World-Honored Buddha – the
Dharma preacher
d.         Time is suitable for Him to go to propagate the Dharma
f. Inviting and teaching the Dharma at right time, at right place, and with right object, the Dharma
    becomes valuable, the Dharma preacher has the additional energy, the Dharma listener has
deeper confidence.
g.         With the spirit of helping oneself and others.  
Thực vậy, pháp thoại được người thành tâm thưa thỉnh, được khéo thuyết giảng đúng lúc, đúng nơi, và đúng đối tượng, thì pháp thoại và người nói pháp đều có thêm uy lực, sức mạnh, và giá trị tâm linh rất nhiều; ngược lại, pháp thoại không do người thưa thỉnh, nói không đúng lúc, không đúng chỗ, và không đứng đối tượng, thì đôi lúc pháp thoại và người nói pháp trở nên có ý nghĩa và giá trị một chút hoặc không có ý nghĩa và giá trị.
Indeed, Dharma talk is whole-heartedly invited, well preached at right time, at right place, and at right object, Dharma preacher and his Dharma talk have additional power, strength, and very much spiritual value. In contrast, the Dharma talk is not invited, is preached not at right time, not at right place, and not at right object, sometimes the Dharma preacher and his Dharma talk become a little bit meaningful and valuable, or meaningless and valueless.
Trên đây, nhìn Phật đản qua khía cạnh con người tối thắng vừa được trình bày xong. Tiếp đến, chúng ta nhìn Phật đản qua khía cạnh con người bình thường.
Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of the topmost person has been above presented, next we look at the Buddha’s Birthday through aspects of normal person.       
5.     Nhìn Phật đản qua khía cạnh con người bình thường
Con người bình thường, trước hết, phải là con người 5 uẩn gồm có sắc, thọ, tưởng, hành, và thức được chia làm 2 phần: đó là Danh sắc (Nāma and rūpa = name and form, or mind and body).[60] Danh (Nāma) thuộc về tâm gồm có thọ, tưởng, hành và thức; và sắc (Rūpa) thuộc về thân gồm có yếu tố đất – chất cứng, yếu tố nước – chất lỏng, yếu tố  lửa – chất nóng, và yếu tố gió – sự chuyển động. Danh và sắc, hay thân và tâm tạm được chia ra như vậy là để cho người học dễ hiểu, chứ thật ra, cả hai chỉ là một mà thôi, đó là con người năm uẩn.
5.     Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of the normal person
The normal person, first of all, must be the person of aggregates that consists of form, feelings, perception, mental formations, and consciousness is divided into two parts: that is nāma and rūpa = name and form, or mind and body.[61] Nāma referring to the mind is comprised of feelings, perception, mental formations, and consciousness; and rūpa referring to the body is comprised of earth elements (pruhavī-dhātu) – solidity, water elements (āpa-dhātu) – liquid, fire elements (teja-dhātu) – warmth, wind elements (vāyu-dhātu) – movement. Nāma and rūpa = name and form, or mind and body that are temporarily divided like this are for a learner to easily understand, but factually, both of which are only one, namely the person of aggregates.        
Yếu tố đất – chất cứng gồm có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, nội tạng, ruột…
yếu tố nước – chất lỏng gồm có mật, đờm, máu, mủ, mồi hôi, chất béo, nước mắt, mũi nhầy, nước tiểu…
yếu tố  lửa – chất nóng gồm có cơ cấu thân thể tạo ra hơi ấm vật lý, lão hóa, tiêu hóa…
yếu tố gió – sự chuyển động gồm có không khí liên quan với hệ thống phổi, hơi thở, gió trong bụng và đường ruột…
Danh sắc, hay tâm và thân tương thuộc với nhau, và không thể tách rời nhau.
Earth elements (pruhavī-dhātu) – solidity include head hair, body hair, nails, teeth, skin, flesh, sinews, bone, organs, intestines, etc.
Water elements (āpa-dhātu) – liquid include bile, phlegm, blood, pus, sweat, fat, tears, nasal mucus, urine, etc.
Fire elements (teja-dhātu) – warmth include those bodily mechanisms that produce physical warmth, ageing, digestion, etc.
Wind elements (vāyu-dhātu) – movement include air associated with pulmonary system, breathing, winds in the belly and bowels, etc.
Name and form, or mind and body (Nāma and rūpa) are interdependent with each other, and inseparable.
Thật vậy, con người bình thường được gọi là con người duyên sinh (Pali: paticcasamuppāda)(ta), con người tương thuộc (không ta), hay con người vô ngã; vô ngã (Pali: anattā) có nghĩa là các yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành, và thức không tồn tại độc lập và riêng biệt; ta và không ta là một, con người duyên sinh và con người tương thuộc là một, và một là tất cả.
Indeed, the normal person is called as the person of dependent arising (Pali: paticcasamuppāda) (self), that of interdependence, or that of no self; no self (Pali: anattā) means the elements of form, feelings, perception, mental formations, and consciousness do not exist independently and separately; self and no self become one, the person of dependent arising and that of interdependence are one, and one is all.
Theo cái nhìn thiền quán của đạo Phật, con người này không chấp một duyên duy nhứt, một chủ thể tuyệt đối, một linh hồn bất biến, và một đấng sáng tạo vĩnh cửu. Con người bình thường, năm uẩn, duyên sinh, hay vô ngã đều được gọi là con người vô thường, phàm phu, hoặc thánh nhân. Con người này sinh ra trong đời, lớn lên trong đời, và thành tựu trong cuộc đời đều phải trải qua các giai đoạn già, bệnh, chết, nghiệp lực, chuyển biến…
According to contemplative vision of Buddhism, this person does not accept a unique condition, an absolute subject, an unchanging soul, an eternal Creator. The person of normality, five aggregates, dependent arising, or no self is called as the person of impermanence, secularity, or saint. This person, who was born in the world, grows up in the world, and succeeds in the world, must undergo stages of birth, old age, sickness, and death, Karma power, changing, etc.      
Học sử Phật giáo, chúng ta biết khi tham quan bên ngoài 4 cửa thành, thái tử Tất Đạt Đa (Siddhārtha) và người hầu cận tên là Sa Nặc (Channa) thấy rõ các cảnh tượng thật, đó là người già, người bệnh, người chết, và vị Khất sĩ. Khi nhìn thấy các cảnh tượng đó, thái tử liền có những dòng suy tư và quán chiếu đời sống của mình và của con người như thế này; là con người, ai cũng phải trải qua các giai đoạn sinh, già, bệnh, và chết; là con người, ai cũng phải tạo ra các nghiệp thiện và nghiệp bất thiện; là con người, ai cũng phải có Phật tính, v.v...
Learning the history of Buddhism, we know that when going sightseeing outside the four gates of the royal palace, the prince Siddhārtha and his charioteer named Channa clearly saw real scenes, that is, an old person, a sick person, a dead person, and a mendicant. When having seen those scenes already, the prince immediately had streams of thoughts, and contemplated his life and human beings’ lives like this; as human beings, everyone must also undergo the stages of birth, old age, sickness, death; as human beings, everyone must also create good Karmas (actions) and non good Karmas; as human beings, everyone must also have Buddha nature, etc.     
Thật vậy, để đem lại an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân trên thế gian này, để đem lại tình thương và hòa bình đích thực cho muôn loài chúng sanh, nương vào con người duyên sinh và vô thường này, Bồ tát Tất Đạt Đa (Bodhisattva Siddhārtha) quyết định chọn con đường xuất gia, con đường tu tập, con đường hướng thượng và hướng thiện, hướng tới giác ngộ, an vui, giải thoát, và Bồ tát quán chiếu rằng:    
Actually, to bring peacefulness and happiness to himself and to others in this world, to bring authentic love and peace to living things and living beings, depending on this person of dependent arising and impermanence, Bodhisattva Siddhārtha decided to choose the path of leaving his royal home for a monastic life, the path of cultivation, the path leading to upper and to good, leading to enlightenment, peaceful joy, freedom, and Bodhisattva contemplated:
Thế nào tôi cũng phải già nua, tôi không thể nào tránh thoát khỏi già nua;
Thế nào tôi cũng phải bệnh, tôi không thể nào tránh thoát khỏi bệnh;
Thế nào tôi cũng phải chết, tôi không thể nào tránh thoát khỏi cái chết;
Tất cả những gì do nghiệp thân, nghiệp khẩu, và nghiệp ý của tôi tạo tác và gây ra, tôi không thể nào xa
lìa và tránh khỏi dù đó là nghiệp thiện hay nghiệp bất thiện;
Tất cả những nghiệp thiện và bất thiện do tôi tạo tác; ý thức rằng nghiệp thiện tôi tiếp tục phát huy, duy
trì, và phát triển; nghiệp bất thiện tôi cố gắng buông bỏ, loại trừ, và chuyển hóa;
Tất cả những người thân, người thương, và những gì tôi trân quý hôm nay, một mai này chắc chắn tôi sẽ
xa lìa và buông bỏ, tôi không thể nào tránh khỏi sự xa lìa và buông bỏ ấy.”[62]
I am certain to also have to get old, I cannot get rid of aging;
I am certain to also have to get sick, I cannot get rid of sickness;
I am certain to also have to die, I cannot get rid of death;
All what is created and caused by my bodily karma, verbal karma, and mental karma, I cannot renounce
and escape from whether it is good karma or non-good karma;
All good karmas and non-good karmas are created by me; aware that my good karmas I keep on
promoting, upholding, and developing; my non-good karmas I try to let go of, to eliminate, and to
transform;
All relatives, loved ones, and what I cherish today, one day I will certainly renounce and let go of them,
I cannot escape from renouncing and letting go of them.[63]
Quán chiếu con người bình thường như vậy bằng cách học hạnh xả ly và buông bỏ chấp thủ, Bồ tát quyết chí xuất gia, nỗ lực tu tập, và an trú vững chãi vào thiền định. Cuối cùng, Ngài giác ngộ viên mãn, và thành Phật – Bậc tỉnh thức vẹn toàn, đem tình thương và ánh sáng hòa bình đích thực cho nhân thế.
Contemplating the normal person like this by learning conduct of renouncing and letting go of clinging, the Bodhisattva decided to leave royal home for a monastic life, to make an effort, and to dwell steadily in concentrated meditation. Finally, he obtained perfect enlightenment and became the Buddha – the fully awakened One, brought love and the light of authentic peace to humanity.
Thực vậy, những điều quán chiếu trên đây rất thiết thực hiện tại mang nhiều ý nghĩa chuyển hóa và tu tập, an vui và hạnh phúc. Là con người bình thường, là đệ tử của đức Thế Tôn, khi chúng ta khéo biết tu tập và chuyển hóa nghiệp bằng cách quán chiếu, áp dụng, và thực hành giáo pháp của đức Thế Tôn vào trong cuộc sống hằng ngày của mình, thì hiện tại ta sống rất an lạc, và tương lai ta sống rất an vui; chúng ta hiểu và thực hành Phật pháp được như vậy, thì an lạc và hạnh phúc có khả năng thấm nhuần và làm mát dịu thân tâm. 
Indeed, the above discussed contemplation things that are very practical in the present bring many meanings of transformation and cultivation, peacefulness and happiness. As the normal people, as the World-Honored One’s disciples, when we skillfully know to cultivate and to transform our karma by contemplating, applying, and practicing His teachings in our daily lives, in the present we live very tranquilly and peacefully, and in the future we will live very tranquilly and joyfully; we understand and practice His Dharma like this, peacefulness and happiness have the ability to permeate and make our bodies and minds cool.




6.     Nhìn Phật đản qua khía cạnh kham nhẫn, trí tuệ, hướng thượng, hướng thiện, an vui, và giải thoát
Trải qua 6 năm tu khổ hạnh với 5 anh em Tôn giả A Nhã Kiều Trần Như, nhà tu Tất Đạt Đa chỉ ăn lá và trái cây rừng để nuôi thân. Cuối cùng, xét thấy lối tu khổ hạnh ép xác này không đem lại an lạc và lợi ích cho thân tâm, Ngài quyết định rời 5 người bạn đồng tu và bỏ lối tu ấy bằng cách thọ nhận bát cháo sữa của nàng Su-dà-ta (Sujata) và chọn con đường Trung Đạo (majjhimāpaipadā):không tu khổ hạnh ép xác và không tham đắm dục lạc.
6.     Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of endurance, wisdom, leading to upper, to good, peacefulness, and liberation
Spending the six years practicing asceticism with his five brothers of the Elder Añña Kondañña, the monk Siddhārtha only ate leaves and fruits in the forest to feed his body. Finally, examining the way of this self-asceticism did not lead peacefulness and happiness to his body and mind, he decided to leave the five fellow monks and to give up that way by receiving a bowl of a milky porridge from a young lady named Sujata and choosing the Middle Path (majjhimāpaipadā): “Non- self-indulgence and non-self-mortification.”
Ở điểm này, các vị cổ Đức thường nói: “Có thực mới vực được đạo.” Nhờ thọ dụng bát cháo sữa của nàng cúng, nên sức khỏe của Ngài dần dần trở nên bình phục. Sau khi thọ dụng xong, Ngài đem bát không quăng xuống sông Ni Liên Thiền (Neranjara), phát nguyện, và nói rằng: “Nếu cái bát này trôi ngược dòng nước, thì việc tu tập của Ta chắc chắn sẽ đạt thành đạo quả.” Quả thật, chọn con đường Trung đạo để tu tập và hướng tới giác ngộ, cuối cùng, Ngài thành tựu được đạo quả tốt đẹp.  
At this point, the Elder usually say: “The way to one’s heart is through one’s stomach.” Thanks to eating the bowl of milky porridge offered by her, his health gradually became recovered. After having eaten it, he took that bowl to throw it down to Neranjara river, opened his vows, and said: “If this bowl drifts upstream against water, my cultivation will certainly obtain Arahantship.” Actually, choosing the Middle Path (majjhimāpaipadā) to cultivate and to lead him to enlightenment, finally, he achieved the well fruitful path.    
Như quý vị biết cái bát này là một ví dụ cụ thể minh họa cho “đời sống chánh niệm, giác ngộ, và tỉnh thức” của hành giả Tất Đạt Đa (Siddhārtha). Trôi ngược dòng có ý nghĩa ngược lại với trôi xuôi dòng; trôi xuôi dòng có nghĩa là mọi người sống ở đời đều phải bị vướng bận gia đình và con cháu; trôi ngược dòng có nghĩa là hành giả sống ở đời, nhưng không bị vướng bận gia đình và con cháu. Nước dụ cho tham ái, ràng buộc, bận bịu, bám víu … Ta ở đây là đại từ ngôi thứ nhất được hiểu là “hành giả.”
As you know this bowl is a specific example exemplified life of mindfulness, enlightenment, and awakening of practitioner Siddhārtha. Drifting upstream means has the opposite meaning to drifting downstream; drifting downstream means everyone living in the world has to be busy with family and descendants; Drifting upstream means the practitioner living in the world, but not busy with his royal family and descendants. Water is the symbol for lust, tie, busyness, clinging, etc. I here is the first person singular pronoun understood as the “practitioner.”       
Vậy, trôi ngược dòng sông có ý nghĩa tổng quát là mọi người ở đời sống đời sống có gia đình, hành giả sống đời sống không có gia đình, không bị ràng buộc bởi các ràng buộc gia đình, vợ chồng, và con cái, sống đời sống có nhiều tự do, thong dong và tự tại, có nhiều thời gian để tu tập và để hướng dẫn người khác, đi trên con đường hướng thượng và hướng thiện, hướng tới an vui và hạnh phúc cho số đông.
Thus, drifting upstream against the river generally means everyone in the world lives a life with the family, the practitioner who lives a life without the family is not tied by ties of his royal family, spouse, and children, lives his life with much freedom, relaxation, and carefreeness, with much time to cultivate and to teach other people, travels on the path leading to upper and to good, to peacefulness and happiness for the many. 
Câu trên vừa đề cập có thể viết lại là: “Nếu hành giả an trú vững chãi trong niệm, trong định, và trong tuệ, thì hành giả chắc chắn sẽ gặt hái được nhiều hoa trái an vui và hạnh phúc đích thực cho số đông trên khắp hành tinh này.” Đây là mệnh đề điều kiện thứ nhứt, nếu áp dụng và thực tập Phật pháp ngon lành vào trong đời sống hằng ngày của mình, thì hành giả chắc chắn có thể gặt hái những hoa trái an vui và hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại. Thật vậy, vun trồng, nuôi dưỡng, và phát triển việc làm thiện, ý nghĩ thiện, và lời nói thiện, thì chắc chắn hành giả sẽ đạt được an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay cuộc đời này.
The above mentioned sentence can be rewritten: “If the practitioner dwells steadily in mindfulness, in concentration, and in wisdom, he will certainly obtain many flowers and fruits of authentically peaceful joy and happiness for the many all over this planet.” It is the first condition clause, if applying and practicing the Buddha Dharma well in our daily lives, the practitioner can certainly reap flowers and fruits of peacefulness and happiness right here and right now in the present life. Indeed, cultivating, nourishing, and developing good doings, good thoughts, and good speeches, the practitioner will certainly achieve peacefulness and happiness for himself and for others right in this life. 
Từ đó, Bồ tát Tất-đạt-đa nhận bó cỏ Kiết tường (Kusa) của người nông phu cúng dường để làm bồ đoàn, đi tới Bồ đề đạo tràng, ngồi thiền dưới gốc cây Bồ đề, và thệ nguyện rằng: “Dù xương tan thịt nát, nếu chưa thành chánh giác, Ta quyết không rời chỗ này.” Nhờ lời nguyện dõng mãnh ấy, cuối cùng, Ngài đạt thành đạo quả giác ngộ và trở thành Phật.
Afterward, Bodhisattva Siddhārtha, who received a bundle of auspicious grass (Kusa) offered by a farmer to make a cushion, walked to Bodhgaya, sat in meditation under a Bodhi tree, and vowed: “Though my bone and flesh get crushed, if I have not attained enlightenment yet, I decide not to leave this place.” Thanks to the courageous vows, finally, He attained enlightenment and became the Buddha.
Vậy, trên lộ trình tu tập, hướng thượng và hướng thiện, trước khi thành Phật, Bồ tát Tất Đạt Đa (Siddhartha) luôn thực tập hạnh kham nhẫn trí tuệ; kham nhẫn là lối tu tập vững chãi; trí tuệ là lối tu tập sáng suốt. Nhờ chọn lọc lối tu đúng đắn, Bồ tát khéo vận dụng chánh kham nhẫn, chánh trí tuệ, và chánh tri kiến vào đời sống tu tập hằng ngày của mình để không rơi vào các lối tu cực đoan như đứng một chân như cò, bò vòng quanh đóng lửa, phơi thân suốt ngày đêm ngoài nắng và trong sương, để râu, tóc, lông, móng thật dài…
Thus, on the route of cultivation, leading to upper and to good, before becoming the Buddha, Bodhisattva Siddhartha had always practiced patience and wisdom; the patience is the way of steady cultivation; the wisdom is the way of lucid cultivation. Thanks to choosing the way of correct cultivation, the Bodhisattva skillfully made use of right patience, right wisdom, right understanding in his daily cultivation life in order not to fall into the extreme cultivation ways, such as standing a leg like a stork, crawling around a heap of fire, exposing himself throughout the day and night in the sun and in the mist, letting beards, head hair, body hair, nails be so long, etc.
Cuối cùng, Bồ tát đoạn tận phiền não, vô minh, lậu hoặc, và đích thực trở thành con người tỉnh thức và giác ngộ viên mãn dưới cội cây Bồ đề ở Bồ Đề Đạo tràng, Ấn Độ ngày nay.
Từ thời gian đó cho tới bây giờ, đạo Phật không những được truyền bá trong nước Ấn Độ, mà còn truyền bá trong nhiều nước trên thế giới cổ đại và hiện đại.
Finally, the Bodhisattva eliminated defilements, ignorance, lapses, and authentically became the person of awakening and enlightenment under the tree of Bodhi – Enlightenment, India today.
From that time until now, Buddhism – the path of peace, has been not only spread in India, but also in many countries in the ancient and modern world. 



7.     Nhìn Phật đản qua khía cạnh tưới tẩm, khơi dậy, và đánh thức Phật tánh trong tất cả chúng sanh
        Khi đản sinh, đức Phật sơ sinh nói một câu bất hữu trong lịch sử nhân loại: “Trên trời dưới đất, chỉ có con Người (Ta) là tôn quý, tất cả chúng sinh đều có Phật tính.” (Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn, nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh.[64] Con người được nhấn mạnh ở đây là một đại từ vừa chỉ cho đức Phật, vừa chỉ cho con người bình thường, không phải là một đấng thần linh. Như vậy, câu nói lịch sử này chỉ được tìm thấy trong đạo Phật – đạo tỉnh thức, ngoài đạo tỉnh thức ra, không được tìm thấy trong các tôn giáo khác.
7.     Looking at the Buddha’s birthday via aspects of watering, arousing, and awakening Buddha nature in all living beings
When being born, the newborn baby Buddha said an immortal sentence in history of humankind: “In heaven and on earth, only human is respected and esteemed, all living beings have Buddha nature.[65] The human stressed here is a pronoun, both pointed to the Buddha and pointed to the normal person, no god. Thus, this historical statement is only found in Buddhism, apart from Buddhism, it has not been found in other religions.       
Theo tư tưởng của đạo Phật, Phật tính trong con người và trong chúng sinh đều bình đẳng như nhau. Ở thánh Phật tánh không tăng, và ở phàm Phật tánh không giảm. Quá trình tu tập là quá trình để tự mình làm Phật tánh của mình sáng dần ra, là quá trình nhận diện và chuyển hóa vô minh, phiền não, và khổ đau thành minh, an vui và hạnh phúc bằng cách thực hành và áp dụng những lời nói thiện, ý nghĩ thiện, và việc làm thiện vào trong đời sống hằng ngày của mình để đem lại an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay cuộc đời này.
According to Buddhist thought, Buddha nature in human and in living beings is the same equality. In a sainted person, Buddha nature does not increase, and in a normal person, Buddha nature does not decrease. The process of cultivation which is the process of oneself can make one’s Buddha nature brighter is the process of recognizing and transforming ignorance, defilements, and suffering into lucidity, peacefulness, and happiness by practicing and applying good speeches, good thoughts, and good actions into one’s daily life to bring peaceful joy and happiness to oneself and to other people right in the present life.
Bằng phương pháp khơi dậy, đánh thức và tưới tẩm Phật tánh của tất cả chúng sanh, đức Phật quán chiếu và đưa ra những ví dụ sinh động và cụ thể như sau: “Có các chúng sanh có nhiều bụi phiền não trong tâm, có ít bụi phiền não trong tâm, và không có bụi phiền não trong tâm. Cũng vậy, có các loại sen hồng, sen đỏ, và sen trắng đang mọc trong nước, lớn lên trong nước, vươn ngang mặt nước, và vượt ra khỏi mặt nước, song qua quá trình mọc và sống trong ao nước, tất cả các loại hoa sen đều lần lượt nở hoa tươi tốt.[66]
By the methods of arousing, awakening, and watering all living beings’ Buddha nature, the Buddha contemplated and brought out vivid and specific examples as follows: “There are living beings with much dust of defilement in mind, with less defilement dust in mind, and without defilement dust in mind. Likewise, there are kinds of the pink lotuses, red lotuses, and white lotuses, growing in water, growing up in water, reaching across the surface of water, and reaching beyond the surface of water, but through the process of growing and living in a pond, all kinds of lotuses gradually bloom freshly.[67]  
Trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Thảo dụ thứ V,[68] đức Phật đưa ra các hình ảnh ẩn dụ của một trận mưa, cây lớn hút nước mưa nhiều, cây vừa vừa hút nước mưa vừa vừa, cây nhỏ hút nước mưa ít; song, qua quá trình hút nước, tất cả các loại cây lớn, cây vừa, và cây nhỏ đều trở nên xanh tốt. Cũng vậy, có các chúng sanh có nhiều trí tuệ, có các chúng sanh có trí tuệ vừa vừa, và có các chúng sanh có ít trí tuệ;
In the Lotus Sutra, the Parable of the Herbs, Chapter V,[69] the Buddha brought out the metaphoric images of a rain, big trees absorb much rainwater, moderate trees absorb moderate rainwater, small trees absorb a little rainwater; however, through the processes of absorbing water, all kinds of big, moderate, and small trees get fresh and verdant. Likewise, there are living beings with much wisdom, there are living beings with moderate wisdom, there are living beings with a little wisdom;
song qua quá trình đủ duyên tiếp thu, học hỏi, áp dụng, và hành trì Phật pháp vào đời sống hằng ngày, tất cả các loại chúng sanh đó đều thấm nhuần Phật pháp và dần dần đem lại an lạc và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay tại thế gian này.
however, through the processes of having good opportunity to acquire, to learn, to apply, and to practice the Buddhadharma in their daily lives, all kinds of living beings are imbued with the Buddhadharma and gradually bring peacefulness and happiness to themselves and to other people right in the present life.




8.     Nhìn Phật đản qua khía cạnh bình đẳng   
Bình đẳng là một âm tiếng Hán Việt; bình có nghĩa là an bình, hòa bình, bằng phẳng, đồng đều, bao dung, rộng lượng, đón nhận, tiếp nhận, chấp nhận …; đẳng có nghĩa là sai khác, sai biệt, khác biệt, không giống nhau, không kỳ thị…
8.     Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of equality
Bình đẳng is a Sino-Vietnamese word; bình means tranquility, peace, flatness, alikeness, tolerance, generosity, welcome, reception, acceptance, etc.; đẳng means difference, variety, discrepancy, dissimilarity, non-discrimination, etc.
Vậy, bình đẳng có nghĩa là chấp nhận sự khác nhau với tâm bao dung, rộng lượng, không kỳ thị, và không chống trái. Nó không những bao hàm những ý nghĩa tình thương, tình huynh đệ, tình đồng loại, hòa hợp, đoàn kết, che chở, bảo hộ, tha thứ…, mà còn bao hàm những ý nghĩa không kỳ thị, không phân biệt, và chấp nhận sự khác biệt. Ngược với Bình đẳngbất bình đẳng; bất bình đẳng có nghĩa là kỳ thị, phân biệt, phân chia, không chấp nhận sự khác biệt…
Thus, bình đẳng means acceptance of difference with the heart of tolerance, generosity, non-discrimination, and non-contrariness. It not only implies the meanings of love, brother/sisterhood, fellow-creature, harmony, solidarity, defense, protection, forgiveness, etc., but also those of non-discrimination, non-distinction, and acceptance of differentiation. Contrariness to equality is inequality; inequality means discrimination, differentiation, division, non-acceptance of difference, etc.   
Chúng ta biết đạo Phật có mặt trên thế gian này gần ba nghìn năm; thời gian trước đạo Phật, sau đạo Phật, và cho tới bây giờ, trong xã hội Ấn Độ, hầu hết người dân Ấn theo Ấn giáo (Hinduism) hay Bà La Môn giáo (Brahmanism), được chia thành 4 giai cấp khác nhau rõ rệt; sự phân giai cấp của người Ấn ngày xưa có thể thấm vào máu thịt của họ không dễ mà thay đổi; tuy nhiên, sự phân chia giai cấp của người Ấn ngày nay có phần thay đổi tư tưởng và cái nhìn của họ, nhưng không nhiều kể từ khi người Ấn có cơ hội mở cửa và tiếp xúc với thế giới bên ngoài. 
As we know Buddhism has been present in the world for nearly three thousand years; time before Buddhism, time after Buddhism, and until now, in Indian society, most of Indian people follow Hinduism or Brahmanism, divided into four obviously different castes; division of ancient Indian castes which can be absorbed into their flesh and blood is not easy to change; however, the division of Indian castes today has a part of changing their ideas and views, but not many since when Indian people have had the opportunity to open the door and to contact with the world outside.
Theo luật Mã Nỗ (Mānu) của Bà La Môn giáo (Brahmanism), Ấn giáo được chia làm 4 giai cấp[70] khác nhau do đấng Phạm thiên (Brahma) tạo ra:
a.     Giai cấp tu sĩ tế lễ Bà La Môn (Brahman)
b.     Giai cấp dũng sĩ Sát Đế Lợi (Ksatriya)
c.     Giai cấp buôn bán Phệ Xá (Vaisya), và
d.     Giai cấp lao động thấp kém Thủ Đà La (Sudra)
According to Mānu rules of Brahmanism, Hinduism is divided into the four different castes[71] created by a Brahma:
a.     Brahman sacrificial priest caste
b.     Ksatriya warrior caste
c.     Vaisya merchant caste
d.     Sudra low labor caste
Bà La Môn (Brahman) có nghĩa là thanh tịnh và tịnh hạnh. Những người theo giai cấp này là những vị đạo Sĩ, được sanh ra từ miệng Phạm thiên, đứng vị trí thứ nhứt trong xã hội, chăm lo nghi lễ, tế tự, cúng tế, giao tiếp thần linh, và nắm giữ quyền lực thần quyền.
Brahman means purity and virtue. Those who follow this caste are priests or hermits, were born from the Brahma’s mouth, are in the first position in society, take care of rituals, sacrifice, prayers, communicate deities, and hold divine power.
Sát Đế Lợi (Ksatriya) có nghĩa là mạnh mẽ và hùng mạnh. Những người theo giai cấp này là những dũng sĩ, quan quyền và vua chúa, được sanh ra từ vai Phạm thiên, đứng vị trí thứ hai trong xã hội, chăm lo việc nắm giữ quyền lực chính trị để giữ gìn đất nước, dòng dõi vua chúa, và chống giặc nội ngoại xâm.
Ksatriya means strength and power. Those who follow this caste are warriors, mandarins, and kings, were born from the Brahma’s shoulder, are in the second position in society, take care of holding the political power to guard the country, lineage of kings, and to resist the enemies of the internal and foreign invasion.  
Phệ Xá (Vaisya) có nghĩa là buôn bán, trồng trọt, chăn nuôi... Những người theo giai cấp này là những người buôn bán, nông dân, công dân… được sanh ra từ hông Phạm thiên, đứng vị trí thứ ba trong xã hội, chuyên lo việc mua bán, đổi chác, làm rẫy, làm ruộng, làm vườn… tạo ra tài sản, và phục dịch cho hai giai cấp trên.
Vaisya means trading, cultivation, breeding, etc. Those who follow this caste are merchants, farmers, workers, etc., were born from the Brahma’s hip, are in the third position in society, take care of buying, selling, exchanging, making mountain field, growing rice paddy, doing the garden, etc., create properties, and serve the two above castes.  
Thủ Đà La (Sudra) có nghĩa là bần cùng, thấp kém, và hạ tiện. Những người theo giai cấp này là những đầy tớ, tôi tớ, nô lệ… được sanh ra từ bàn chân Phạm thiên, đứng vị trí thứ tư trong xã hội, luôn rụt rè, sợ sệt, cúi đầu, khép nép…, và phục dịch cho 3 giai cấp trên.
Sudra means poverty, low, and vileness. Those who follow this caste are servants, subordinates, slaves, were born from the Brahma’s feet, are in the fourth position in society, are always timid, fearful, bowing down, subservient, and serve the three above castes.  
Bốn giai cấp này được luật Mã Nỗ (Mānu) phân chia rõ ràng. Tuy nhiên, ngoài bốn giai cấp ấy ra, xưa cũng như nay xã hội Ấn Độ vẫn còn có hạng người cùng đinh không liệt kê vào bốn giai cấp trên; họ là hạng người bần cùng trong xã hội, họ không có nhà để ở, họ ngủ ở vỉa hè, trên lòng lề đường, họ không có quần áo để che thân, không có cơm để ăn, không có nước sạch để uống, v. v. và v. v. Ai cho gì thì họ ăn cái nấy. Họ dễ bị chết cóng vào mùa đông, chết nóng vào mùa hè, chết đói vào mùa xuân, mùa hạ, mùa thu và mùa đông. Hạng người cùng đinh (Dalits)[72] này không được liệt kê trong bốn giai cấp được thảo luận ở trên.
These four castes are clearly divided by Mānu  rules. However, in addition to the four castes, anciently as well as presently, Indian society has still had a kind of Dalits, are not listed in the four above castes; they are kinds of untouchables or impoverished people in society, they do not have any house to live, they sleep on the sidewalk, on the roadsides, they do not have clothes to cover their bodies, they do not have cooked rice to eat, do not have clean water to drink, etc. They can eat some food and drink which are given to them. They easily freeze to death in the winter, die of heat in the summer, starve to death in the spring, in the fall, and in the winter. Kinds of these Dalits[73] are not listed in the four above discussed castes.   
Thật vậy, theo Luật Mã Nỗ (Manu), người theo giai cấp nào thì sinh hoạt theo giai cấp nấy. Ví dụ, người theo giai cấp Bà La Môn (Brahman), thì họ chỉ sinh hoạt và giao tiếp với những người cùng giai cấp của họ mà thôi. Người theo giai cấp dũng sĩ (Sát Đế Lợi/ Ksatriya), thì họ chỉ sinh hoạt và giao tiếp với những người cùng giai cấp của họ mà thôi. Người theo giai cấp buôn bán (Phệ Xá/ Vaisya), thì họ chỉ sinh hoạt và giao tiếp với những người cùng giai cấp của họ mà thôi. Người theo giai cấp lao động thấp kém (Thủ Đà La/ Sudra), thì họ chỉ sinh hoạt và giao tiếp với những người cùng giai cấp của họ mà thôi. Họ rất hạn chế trong việc làm ăn, giao tiếp, đặc biệt trong việc cưới hỏi và hôn nhân ngoài giai cấp.
Indeed, according to the Manu rules, people only work with their caste they follow. For example, people who follow Brahman caste only work and communicate with people of their same caste. People who follow warrior caste only work and communicate with people of their same caste. People who follow trading caste only work and communicate with people of their same caste. People who follow low labor caste only work and communicate with people of their same caste. They are very limited in business, communication, especially in wedding and marriage outside caste. 
Khi gặp những người theo hai giai cấp Bà La Môn (Brahman) và Sát Đế Lợi (Ksatriya), thì những người theo hai giai cấp Phệ Xá (Vaisya) và Thủ Đà La (Sudra) phải khiêm nhường, khúm núm, và tránh né. Những ai không tuân thủ vào Luật Mã-nỗ này thì họ sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc. Do vậy, những người theo hai giai cấp dưới không hoặc hiếm có cơ hội học tập, phấn đấu, tiến thân, thành tài như hai giai cấp trên. Những lý do đó đưa tới bất bình đẳng trong xã hội tạo ra các cá nhân bất ổn, gia đình bất an, và xã hội xáo trộn không ít vì sự phân chia giai cấp, kỳ thị giàu nghèo, màu da, chủng tộc, tôn giáo, vân vân…
When meeting people follow the two castes of Brahman and Ksatriya, people following the two castes of Vaisya and Sudra have to be humble, subservient, and avoidable. Those who do not comply with the Manu rules will be severely punished. Thus, people who follow the two low castes do not or rarely have an opportunity to learn, to strive, to succeed in their lives, to become the talented ones like the two above castes. The reasons that lead to inequality in society cause instable individuals, insecure families, and disturbed society not little because of caste division, discrimination of rich and poor people, skin color, race, religion, etc.      
Hơn nữa, theo quan điểm Bà La Môn giáo (Brahmanism), Bà La Môn cho rằng những ai theo giai cấp Bà La Môn (Brahman), thì họ là người giai cấp Bà La Môn suốt đời; những ai theo giai cấp dũng sĩ (Sát Đế Lợi/ Ksatriya), thì họ là người giai cấp dũng sĩ suốt đời; những ai theo giai cấp buôn bán (Phệ Xá/ Vaisya), thì họ là người giai cấp buôn bán suốt đời; những ai theo giai cấp lao động thấp kém (Thủ Đà La/ Sudra), thì họ là người giai cấp lao động thấp kém suốt đời.
Moreover, according to viewpoints of Brahmanism, Brahman has believed that those who follow Brahman caste are people of the Brahman caste forever; those who follow warrior caste are people of the warrior caste (Ksatriya) forever; those who follow trading caste (Vaisya) are people of the trading caste forever; those who follow low labor caste (Sudra) are people of the low labor caste forever.     
Theo quan điểm Phật giáo, đạo Phật đề cao và tôn trọng mọi người đều có Phật tính, bình đẳng không có giai cấp trong giọt máu cùng đỏ và trong giọt nước mắt cùng mặn. Đạo Phật không chấp nhận các quan điểm của Bà La Môn giáo (Brahmanism), chỉ chấp nhận các nghiệp thân, nghiệp khẩu, và nghiệp ý do họ tạo tác ra ở đời trước, đời này, hoặc ở đời sau mà thôi.
According to its viewpoints, Buddhism dignifies and respects everyone with Buddha nature and equality without caste in the same blood and in the same saltiness. Buddhism does not accept the viewpoints of Brahmanism, it only accepts their bodily actions (Karma), verbal actions, and mental actions created by them in the previous life, the present life, or in the future life.  
Nếu bạn là con người có dòng máu cùng đỏ, giọt nước mắt cùng mặn, bạn có phúc sinh ra trong một gia đình giàu có của Bà La Môn hay của Sát Đế Lợi. Nếu bạn sống trong gia đình ấy, bạn không biết làm những điều phúc thiện, sát sinh hại vật, khinh chê, và khinh thường người khác, thì hiện tại phúc đức của bạn giảm dần, bạn sẽ bị nhiều người oán trách, và tương lai, chắc chắn bạn sẽ bị tái sinh vào trong gia đình nghèo khổ.
If you are people with the same red bloodstream, the same salty teardrop, you are blessed to be born in a rich family of Brahman or in that of Ksatriya. If you live in that family, you do not know to do the virtuous and wholesome things, kill living beings, despise, and disdain other people, in the present your virtuous blessings decreases, you will be reprimanded, and in the future, you will certainly be reborn in a needy family.   
Ngược lại, nếu bạn là người thiếu phúc đức và thiếu may mắn, bạn sinh ra trong một gia đình Phệ Sá (Vaisya) hay Thủ Đà La (Sudra) nghèo khổ, nhưng bạn có duyên lành tiếp xúc với ánh sáng giáo lý Phật đà, bạn nỗ lực tu học Phật pháp thật giỏi, bạn có thể trở thành người đạo đức và gương mẫu trong gia đình và trong xã hội.
In contrast, if you are people lacking virtuous blessings and luckiness, you were born in a needy Sudra or Vaisya family, but you have a good opportunity to contact with the light of the Buddha’s teachings, you make an effort to cultivate and to learn the Buddhadharma so well, you can become people of virtue and exemplariness in your family and society.
Mặc dầu bạn sinh trong một gia đình nghèo khổ, phương tiện vật chất và tinh thần đối với bạn không dễ dàng thành tựu và vươn lên trong cuộc sống, nhưng nhờ thân tâm nỗ lực, hướng thượng và hướng thiện, bạn có thể vun trồng và tích lũy công đức bằng cách giúp người nghèo khổ, bố thí, và phóng sinh. Khi bạn hiểu và thực hành được như vậy, trong hiện tại, phúc đức của bạn tăng trưởng, gia đình của bạn hạnh phúc, trong tương lai, bạn và gia đình của bạn được nhiều người tôn trọng và quý kính. Nếu tái sinh làm người, bạn sẽ sinh trong gia đình giàu có, an vui, và hạnh phúc trong Phật pháp.   
Although you were in the needy family, means of materials and spirit to you is not easy to achieve and to rise up in your life, thanks to your bodily and mental effort, leading to supper and to good, you can cultivate and accumulate merit by helping the needy, giving alms, and releasing animals. When you understand and practice like this, in the present, your blessings and virtue increase, your family gets happy, in the future, you and your family are respected and esteemed. If being reborn to make human being, you will be born in a rich, peaceful, and happy family of the Buddhadharma.
Trong thời đức Phật, cách đây hơn 2600 năm, có những vị đệ tử của Phật như Tôn giả luật sư Ưu Ba Li (Upali),[74] người thợ hớt tóc, giai cấp hạ tiện; Tôn giả Sunita (Ni-đề),[75] người gánh phân, không được liệt kê vào bốn giai cấp trên. Hoặc khoảng cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, có một vị Phật tử rất nổi tiếng tên là tiến sĩ Ambedka,[76] người thuộc giai cấp hạ tiện; cả ba người đều là người Ấn Độ sống cách nhau hơn nghìn năm. Song cả ba người có đủ duyên lành học, hiểu, áp dụng, và thực hành giáo pháp của đức Thế Tôn vào đời sống hằng ngày, đều trở thành những người Phật tử thuần thành, có khả năng giúp cho đạo Pháp và dân tộc, cho tự thân và tha nhân sống an vui và hạnh phúc ngay tại thế gian này. 
In the Buddha’s time, for over 2600 years ago, there were the Buddha’s disciples such as the Honored Elder Upali Attorney,[77] a barber, an untouchable caste; the Honored Elder Sunita,[78] a dung–collector, was not listed in the above four castes. Or about the end of the 18th century, at the beginning of the 19th century, there was a very famous Buddhist named Dr. Ambedka,[79] a person of an untouchable caste; all these three people that were Indian lived over thousand years ago. However, all the three people that had good conditions to learn, to understand, to apply, and to practice the Dharma of the World-Honored One in their daily lives, became the devout Buddhists, had the ability to help the Dharma path and the people, themselves and other people live peacefully and happily right in this world.           
Thực vậy, đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Người sáng lập ra đạo Phật, có khả năng đem lại bình đẳng, an vui, hạnh phúc, ánh sáng giác ngộ, từ bi, và trí huệ không những cho xã hội Ấn Độ, mà còn cho cả thế giới nhân loại ngày nay.
Indeed, the Sakyamuni Buddha, who founded Buddhism, had the ability to bring equality, peacefulness, happiness, the light of enlightenment, loving-kindness, compassion, and wisdom not only to Indian society, but also to the whole world of humankind today.
Theo cái nhìn bình đẳng của đạo tỉnh thức, đạo Phật không bao giờ phân chia giai cấp và không chấp nhận những người theo giai cấp Bà La Môn là hoàn toàn thông minh và thanh tịnh; những người theo giai cấp Thủ Đà La (Sudra) hoàn toàn là ngu dốt và ô uế. Thông minh hay không thông minh, thanh tịnh hay không thanh tịnh, giai cấp hay không giai cấp đều do các hành động thiện và bất thiện của mình tạo tác mà hình thành. 
According to the equal vision of the awakening path, Buddhism has never discriminated any caste and has not accepted people who followed the Brahman caste were wholly intelligent and purified; who followed the Sudra caste were fully ignorant and dirty. Intelligence or unintelligence, purity or impurity, caste or non-caste, were created by their good actions and non-good actions to form.   
Tự mình điều ác làm,
Tự mình làm nhiễm ô,
Tự mình ác không làm,
Tự mình làm thanh tịnh,
Thanh tịnh không thanh tịnh
Đều do tự chính mình
Không ai thanh tịnh ai.
(Pháp Cú, kệ 165)
By oneself is evil done;
By oneself is one defiled.
By oneself is evil left undone;
By oneself is one made pure.
Purity and impurity depend on oneself;
No one can purify another.
(Dhammapada, Verse 165).
Sở dĩ các giai cấp được phân chia như vậy là vì Bà La Môn giáo muốn thống trị thiên hạ, muốn thiên hạ coi mình là trên hết, và bắt buộc mọi người phải tuân thủ làm theo. Nếu ai không làm theo luật Mã-nỗ (Manu) thì họ sẽ bị khiển trách và trừng phạt; ngược lại, đạo Phật hoàn toàn không đồng ý các quan điểm trên.
The reasons why castes have been divided thus are because Brahmanism wants to dominate people, wants the latter to consider the former as the uppermost, and forces everyone to obey and to follow. If those who do not follow the Manu rules would be reprimanded and punished; conversely, Buddhism has entirely not agreed the above viewpoints.  
Để chứng minh tinh thần bình đẳng trong đạo Phật, Kinh Phật Tự Thuyết (Udàna), chương V, phẩm Trưởng Lão Sona thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddhaka Nikàya) ghi rõ: “…Ví như khi các con sông Hằng, sông Yamunà, sông Aciracati, sông Sarabhù, và sông Mahi chảy đến biển, chúng liền bỏ tên họ trước, và sau này trở thành biển lớn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo! Có những hạng người trong bốn giai cấp Sát Đế Lợi (Ksatriya), Bà La Môn (Brahman), Phệ Xá (Vaisya), và Thủ Đà La (Sudra); Sau khi từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia trong Pháp và Luật được Thế Tôn tuyên bố sau này, chúng từ bỏ tên và họ của chúng trước, và sau trở thành những đệ tử của đức Thế Tôn.[80]
To prove the equal spirit of Buddhism, the Udàna Sutta, spoken by the Buddha himself, V, the chapter of the Elder Sona belonging to Khuddhaka Nikàya, states clearly: “For example, when Ganga river, Yamunà river, Aciracati river, Sarabhù river, and Mahi river, flow to the ocean, they immediately give up their names first, and later become the open sea. Likewise, O Bhikkhus! There are kinds of people in the four castes of Ksatriya, Brahman, Vaisya, and Sudra; After renouncing your family, living beyond ties of your family, leaving home for your monastic lives in his Dharma and moral rules (Vinaya) exclaimed by the World-Honored One later on, you all abandon your names first, and later become the World-Honored One’s disciples.




Qua đoạn trích dẫn trên đây, chúng ta thấy rằng trong giáo pháp của đức Thế Tôn và trong đời sống sinh hoạt hằng ngày của Tăng đoàn không có giai cấp; ở điểm này, tinh thần bình đẳng trong đạo Phật đã hiện ra rõ ràng. Thật vậy, dù các bạn đã mang hàng trăm tộc họ khác nhau, dù các bạn là những người da trắng, da đen, da vàng, và da đỏ, dù các bạn là những người không có cùng giai cấp và tôn giáo, nhưng một khi có đủ duyên tu học và thực hành giáo pháp của đức Thế Tôn, các bạn đều trở thành các đệ tử của Ngài, lần lượt nếm được pháp lạc, và tiến đến an lạc và giải thoát như nhau.
Through the above quotations, we have found that in the Dharma of the World-Honored One and in the Sangha’s daily activities lives there is not any caste; at this point, the equal spirit of Buddhism has been manifested clearly. Indeed, though you have brought hundreds of different clans and surnames, though you are white, black, brown, and red people, though you do not have the same caste and religion, once having sufficiently good opportunities to cultivate, to learn, and to practice the Dharma of the World-Honored One, you become his disciples, gradually enjoy the joyful Dharma, and reach to peacefulness and freedom alike.   
Chúng ta đều biết ngược dòng thời gian cách đây hơn 26 thế kỷ qua, đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Người sáng lập ra đạo Phật, đạo tỉnh thức và giác ngộ, đem an lạc, hạnh phúc, và bình đẳng cho mọi người và mọi giai cấp. Giáo pháp của đức Phật là giáo pháp bình đẳng; đức Phật là bậc Thầy bình đẳng, vị Vua bình đẳng; sự phân biệt và kỳ thị giai cấp và chủng tộc không bao giờ tìm thấy trong lời dạy của Thầy. Thầy nhấn mạnh rằng:
We know that going back in time more than 26 centuries ago, the Sakyamuni Buddha, who founded Buddhism, the path of awakening and enlightenment, brought peacefulness, happiness, and equality to everyone and every caste. His Dharma is the equal Dharma; He is the equal Teacher, the equal King; distinction and discrimination between caste and race have never been found in His teachings. He emphasized that: 
Không có giai cấp trong giọt máu cùng đỏ và trong giọt nước mắt cùng mặn. Không phải do sinh trưởng mà người này là cao quý. Không phải do sinh trưởng là người kia là hạ tiện. Chính do hành động thiện mà người này là cao quý. Chính do hành động bất thiện mà người kia là hạ tiện(Xem Sutta Nipàta-vasala Sutta). 
Những ai có đủ duyên lành thực hành và áp dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày một cách chánh niệm và tỉnh giác, vững chãi và thảnh thơi, thì họ đều thưởng thức và nếm được pháp lạc như nhau ngay trong giờ phút hiện tại. Thực vậy, mọi người sinh ra trên hành tinh này, ai cũng có giọt nước mắt cùng mặn, giọt máu cùng đỏ, ai cũng sợ gươm đao, ham sống và sợ chết, và ai cũng muốn có đời sống an vui và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay tại thế gian này.[81]
There is not any caste in the same red blood drops and in the same salty teardrops. Not due to one's birth and growth is noble. Not due to one's birth and growth is ignoble. It is due to wholsesome doing that one is noble. It is due to unwholesome doing that one is ignoble.(See Sutta Nipàta-vasala Sutta). 
Those who have sufficiently good opportunity to practice and to apply the Buddhadharma in their daily lives mindfully and attentively, steadily and carefreely enjoy and taste the joyful Dharma alike right in the present hours and minutes. In fact, everyone is born on earth, they also have the same salty teardrops, the same red blood drops, they are also afraid of sword, desire to live, and fear to die, and they also want to lead their peaceful and happy lives to themselves and to other people right in the present life.[82]
Với những ý nghĩa thiết thực nêu trên, chúng ta biết trong Tăng đoàn của đạo Phật, và trong giáo pháp của đức Phật không có giai cấp. Trong tinh thần bình đẳng của đạo Phật không bao giờ có sự kỳ thị chủng tộc và phân chia giai cấp; hễ những ai có đủ duyên tu tập, thực hành lời dạy của đức Phật, không làm các điều ác, làm các việc lành, giữ thân tâm thanh tịnh và an lạc, sống đời sống chánh niệm và tỉnh giác trong đời sống hằng ngày của mình, thì họ là những người có khả năng đem lại những hoa trái an vui và hạnh phúc đích thực cho số đông trên khắp hành tinh này.
With the aforementioned practical meanings, we know that in the Sangha of Buddhism, and in the Dharma of the Buddha there is not any caste. In the equal spirit of Buddhism there are never discrimination of race and division of caste; those who have enough good conditions to cultivate, to practice the Buddha’s teachings, not to do evil things, to do good things, to keep their minds purified and peaceful, to lead their lives of right mindfulness and awareness in their daily lives, are people having the ability to bring flowers and fruits of authentic joy and happiness to the many all over this planet.    
Để hiểu rõ và xác nhận những điều thảo luận ở trên, học lịch sử Phật giáo, chúng ta biết trong đạo Phật có rất nhiều hạng người ở nhiều giai cấp và tôn giáo khác nhau; trước khi là một người cư sĩ, Tôn giả Ni Đề (Sunita) là người hốt phân không thuộc bốn giai cấp trên; Tôn giả Ưu ba li (Upali) là người thợ hớt tóc ở giai cấp thấp thứ tư (Sudra);  Tôn giả Thuần Đà (Chunda) là người thợ rèn ở giai cấp thứ ba (Vaisya); Tôn giả A Nan Đa (Ananda) là người giai cấp dũng sĩ (Ksatriya); Tôn giả Xá lợi Phất (Sariputta) và Tôn giả Mục Kiền Liên (Mahà Moggallàna) là những người giai cấp Bà-la-môn (Brahman); Tôn giả Vô Não (Angulimala) là vị tướng cướp khét tiếng; Am Ba Ba Li (Ambapàli) là một kỉ nữ hạng sang, v. v….. Song qua quá trình tiếp xúc, học hỏi, áp dụng, và hành trì Phật pháp, chư vị đều trở thành những người đệ tử an vui và hạnh phúc đích thực của đức Thế Tôn.
To clearly understand and to confirm the above discussed things, learning the history of Buddhism, we know that in Buddhism there are very many kinds of people in many different castes and religions; before being a lay person, the Elder Sunita was a dung-collector, not belonging to the four above castes; the Elder Upali was a hair-cutter of the fourth caste (Sudra); the Elder Chunda was a smith of the third caste (Vaisya); the Elder Ananda was a person of warrior caste; the Elder Sariputta and the Maha Moggallàna Elder were people of Brahman caste; the Elder Angulimala was a notorious chief bandit; Ms. Ambapàli was a courtesan, etc. However, through the process of contacting, learning, applying, and practicing the Buddhadharma, they became authentically peaceful and happy disciples of the World-Honored One.
Cũng vậy, các loại nước sạch, nước dơ, nước ngọt, nước lợ … của trăm ngàn con sông, suối, ao, hồ… chảy ra biển cả đều trở thành nước mặn. Tất cả các hạng người ở nhiều giai cấp và chủng tộc khác nhau, song họ có đủ duyên theo Phật, nghe pháp, thực hành lời Phật dạy, họ có khả năng thưởng thức và nếm được pháp lạc ngay trong đời sống hằng ngày, và sống đời sống an vui và giải thoát đích thực cho tự thân và cho tha nhân ngay tại thế gian này.        
Likewise, kinds of clean water, unclean water, fresh water, brackish water, etc., of hundreds and thousands of rivers, springs, ponds, lakes, etc., flowing into the ocean become salty water. All kinds of people come from many different castes and races, however, they have enough good opportunity to follow the Buddha, to listen to his Dharma, to practice his teachings, they have to ability to enjoy and to taste the joyful Dharma right in their daily lives, and lead their lives of authentic peacefulness and freedom for themselves and other people right in this world. 
Thật vậy, tinh thần bình đẳng của đạo Phật, đã được thấm nhuần qua các triều đại vua chúa, dòng dõi, thế hệ, và giai cấp khác nhau, đã được truyền bá không những ở trong nước Ấn Độ, mà còn ở ngoài nước khác như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, Lào, Thái, Úc, Pháp, Đức, Mỹ…Tinh thần đó rất thiết thực và giá trị vượt thoát biên cương, thời gian, và không gian.    
Indeed, the equal spirit of Buddhism, which has been penetrated through the reigns of kings, lineages, generations, and various castes, has been spread not only in India, but also in other countries such as Japan, South Korea, Vietnam, Laos, Thailand, Australia, France, Germany, United States of America, etc. That spirit, which is very practical and valuable, is beyond boundary, time, and space.
        Trên đây, tinh thần bình đẳng đã được trình bày xong; tiếp đến, người viết tiếp tục trình bày và tìm hiểu nhìn Phật đản qua khía cạnh hòa bình
        The spirit of equality has been above presented; next, the writer continues to present and to learn about looking at Buddha’s Birthday through peace aspects.   



9.     Nhìn Phật đản qua khía cạnh hòa bình
Tiếp theo phần số 2 vừa thảo luận ở trên, phần số 9 sẽ được trình bày cho chúng ta biết cái nhìn Phật đản qua các khía cạnh ẩn dụ, huyền thoại, nhấn mạnh…, đặc biệt qua khía cạnh hòa bình bằng cách tu tập và thực hành giáo pháp của đức Thế Tôn.
Con số 7 và con số 9 trong đạo Phật được đề cập và nhấn mạnh rất nhiều; trong bài viết này, người viết chỉ thảo luận hai khía cạnh đặc thù có liên quan tới hai con số này mà thôi, đó là khía cạnh thời gian và không gian.
9.     Looking at the Buddha’s Birthday via aspects of peace
Next to the above discussed second section, the ninth section will be presented us with looking at the Buddha’s Birthday through aspects of metaphor, myth, emphasis, etc., especially through aspects of peace by cultivating and practicing the Dharma of the World-honored One.
The number 7 and number 9 in Buddhism are mentioned and emphasized very much. In this writing, the writer only discusses the two specific aspects related to these two numbers, which are the aspects of time and space
Về khía cạnh thời gian, con số 7 gồm có quá khứ hôm qua (1), hiện tại ngày nay (2), và vị laingày mai (3). Về khía cạnh không gian, con số 7 gồm có phương Đông (4), phương Tây (5), phương Nam (6), phương Bắc (7); con số 9 gồm có hai phương nữa, đó là phương Trên (8) và phương Dưới (9).
About the aspect of time, the figure 7 consists of the past – yesterday (1), the present – today (2), and the future – tomorrow (3). About the aspect of space, the figure 7 consists of the East (4), the West (5), the South (6), the North (7); the figure 9 consists of the two additional directions, which are the Above (8) and the Below (9).
Phương Trên chỉ cho thời gian, phương Dưới chỉ cho không gian; phương Trên có nghĩa là phương hướng thượng, hướng tới việc tu học, chuyển hóa phiền não, giác ngộ, và giải thoát để làm lợi ích cho tự thân; và phương Dưới có nghĩa là phương hướng tới việc hoằng pháp để làm lợi ích cho tha nhân (trên thỉnh cầu Phật pháp để tu học, dưới hóa độ chúng sanh).
The Above indicates time, the Below indicates space; the Above means the upper direction, leading to cultivation, transforming defilements, obtaining enlightenment, and deliverance to benefit oneself; and the Below means direction of leading to preaching the Dharma to benefit other people.   
Về thời gian, trong quá khứ, hiện tại, và vị lai, tức ngày hôm qua, ngày nay và ngày mai; về không gian, ở phương Đông, phương Tây, phương Nam, phương Bắc, phương Trên, và phương Dưới; hay ở Châu Á, Châu Âu, Châu Úc, Châu Phi, và Châu Mỹ, bất cứ thời gian nào hay nơi nào đạo Phật được truyền bá, thì thời gian đó hay nơi đó dân chúng địa phương sống hiền ra và thiện ra nếu mọi người cùng nhau học, hiểu, áp dụng, và thực hành Phật pháp vào trong đời sống hàng ngày.
About time, in the past, the present, and in the future, that is yesterday, today, and tomorrow; about space, in the East, the South, the North, the Above, and in the Bellow; or in Asia, Europe, Australia, Africa, and in America, wherever or wherever Buddhism has been spread, at that time or there the local people live more gently and better if they learn, understand, apply, and practice the Buddhadharma together in their daily lives

Xưa và nay, đạo Phật không bao giờ có chiến tranh tôn giáo bởi vì giáo pháp của đức Thế Tôn là giáo pháp tỉnh thức, giác ngộ, hòa bình, từ bi, và trí tuệ, không bao giờ dung chứa các hạt giống hận thù, tham, sân, si, sầu bi, khổ, ưu não... Giáo pháp không bao giờ khuyên người giết, bảo người giết, và thấy người khác giết để vui mừng theo. Ngược lại, giáo pháp khuyên người làm lành, bảo người làm lành, và thấy người khác làm lành để vui mừng theo trong pháp học, pháp hành, pháp hiểu, pháp thí, và pháp lạc; đây là những điểm đặc thù của Phật giáo mà các tôn giáo bạn hiếm thấy hoặc không được tìm thấy.
Anciently as well as presently, Buddhism has never had a religious war because the Dharma of the World-Honored One is the Dharma of awakening, enlightenment, peace, loving-kindness, compassion, and wisdom, having never contained the seeds of hatred, lust, anger, delusion, sorrow, suffering, grief, etc. The Dharma has never advised people to kill, told them to kill, and seen other people rejoice together. In contrast, the Dharma has advised people to do good, told them to do good, and seen other people do good rejoice together in Dharma learning, Dharma practice, Dharma understanding, Dharma giving, and Dharma joy; these are the specific characteristics of Buddhism that other religions has rarely or not found.   
Qua các ý nghĩa được đề cập ở trên, chúng ta biết rằng đạo Phật là con đường hòa bình, là tôn giáo hòa bình, luôn luôn dạy người ta ý thức thực hành những lời nói hòa bình, ý nghĩ hòa bình, và các hành động hòa bình ở khắp nơi và khắp chốn để đem lại an lạc và hạnh phúc đích thực cho tự thân và cho tha nhân ngay trong cuộc đời này.
Through the above mentioned meanings, we know that Buddhism, which is the path of peace, is religion of peace, always teaches people to be aware of practicing speeches of peace, thoughts of peace, and actions of peace everywhere and every place to bring authentic peacefulness and happiness to themselves and to other people right in the present life.   
Thực vậy, dù bạn là Phật tử hay không phải Phật tử, dù bạn theo đạo Phật hay không theo đạo Phật, nếu bạn khéo ứng dụng và thực hành những lời dạy hòa bình – Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày của bạn bằng cách ý thức bảo vệ và tôn trọng sự sống của mọi loài, nuôi dưỡng tâm từ bi đối với chúng sanh, khởi tâm bố thí, và cứu giúp cả vật chất lẫn tinh thần cho số đông, tôn trọng và bảo vệ hạnh phúc cho gia đình mình và gia đình người khác, nói những điều lợi ích cho số đông, bảo vệ thân tâm an lạc và minh mẫn, v. v… và v. v….
Indeed, whether you are Buddhists or not Buddhists, whether you follow Buddhism or do not follow Buddhism, if you skillfully apply and practice the teachings of peace – the Buddhadharma in your daily life by being aware of protecting and respecting lives of living things and living beings, nurturing your heart of loving-kindness and happiness toward them, arousing the mind of alms-giving, and helping both materials and spirit to the many, respecting and protecting happiness for your family and other people’s families, saying the benefits to the many, protecting your peaceful and lucid body, mind, and so on.
Khi hiểu và thực hành được như vậy, bạn là hành giả và sứ giả hòa bình, và có khả năng hiến tặng món quà tu tập và hành trì, an vui và hạnh phúc cho số đông trên khắp hành tinh này.      
When understanding and practicing like this, you are practitioner and messenger of peace, and have the ability to dedicate your gifts of cultivation and practice, peacefulness and happiness to the many all over this planet.   
Hơn nữa, dù bạn theo Phật giáo Nam tông hoặc Bắc tông; dù bạn theo Thiền tông, Tịnh độ tông, hay Mật tông, bạn vẫn sống bình an trong cuộc sống, và hành trì đúng hướng đi và pháp môn tu tập thích hợp mà bạn đã chọn. Tuy nhiên, các vị xuất sĩ và cư sĩ đều tôn trọng, quý kính, và xem đức Phật, giáo Pháp, và Tăng đoàn là những nơi nương tựa tâm linh an bình và vững chãi nhất của đời mình.
Moreover, whether you follow Theravada Buddhism or Mahayana Buddhism; whether you follow Zen Buddhism, Pure Land Buddhism, or Tantric Buddhism, you still live peacefully in life, and practice the path of going rightly and the Dharma door of appropriate cultivation chosen by you. Monastics and lay people respect, esteem, and consider the Buddha, the Dharma, and Sangha as the places of the most peaceful and steady spirit of their lives.  
Xưa cũng như nay, đạo Phật không bao giờ gây ra một chiến tranh tôn giáo, luôn tôn trọng tinh thần bất bạo động, và luôn xây dựng tinh thần từ bi, trí tuệ, tình thương, và hòa bình cho pháp giới chúng sanh muôn loài. Điều tỉnh thức thứ nhất trong đạo Phật luôn đề cao và tôn trọng tình thương và sự sống hòa bình cho tự thân và cho tha nhân, khuyên dạy mọi người chớ giết, chớ bảo người giết, và chớ thấy người giết chúng sinh mà mình vui mừng theo. Những điểm đặc thù này chỉ được tìm thấy trong đạo Phật, hiếm được tìm thấy trong các tôn giáo bạn.
In the past time as well as the present time, Buddhism, which has never caused any war, always respects the non-violent spirit, and always builds the spirit of loving-kindness, compassion, wisdom, love, and peace for living things and living beings. The awakening thing in Buddhism is always promoted and respected love and life of peace for oneself and for other people, it advises everyone not to kill, not to tell them to kill, and not to see them kill living beings we are delighted with their unwholesome actions. These specific characteristics are only found in Buddhism, they are rarely found in other religions.  
Đến đây, con số 7 và con số 9 trong đạo Phật hàm chứa các ý nghĩa vừa được trình bày ở trên; tiếp đến, xin mời quý vị tiếp tục tìm hiểu ý nghĩa rồng; rồng chỉ là con vật tưởng tượng và tượng trưng, không có thật. Tuy nhiên, để nhấn mạnh sự ra đời của đức Phật một cách linh thiêng, mầu nhiệm, và tôn kính, người ta mới đề cập tới rồng; rồng khác với rắn; rắn là loài bò sát không chân, không vẩy, không mồng, không thể bay và phun lửa được.
Coming here, the number 7 and the number 9 in Buddhism imply the above presented meanings; next, you are cordially invited to continue to learn about the meanings of dragon; the dragon is only an imaginary and symbolic animal, it is not real. However, to emphasize the birth of the Buddha sacredly, miraculously, and respectfully, the dragon is mentioned; the dragon is different than snake, the snake is reptile of non-leg, non-scab, cannot fly and spray fire.



Theo những hình ảnh mà chúng ta thấy, rồng là con vật có chân, có vẩy, có mồng, có thể bay được, và phun lửa; trong ngữ cảnh này, lúc đức Phật ra đời, địa cầu chuyển động,[83] trăm hoa đua nở, rồng có trách nhiệm phun nước – nước từ bi, chứ không phun lửa – lửa tham, sân, si… Nước từ bi này được bắt nguồn từ việc tu tập và hành trì giới, định, và tuệ của chúng ta, có khả năng dập tắt các lửa tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến…
According to pictures that we usually see, the dragon is the animal with legs, scabs, crests, can fly and spray fire; in this context, when the baby Buddha was born, the earth vibrates,[84] a hundred flowers bloom, the dragon has a responsibility to spray water – water of compassion, it does not spray fire – fire of lust, anger, delusion, etc. This compassionate water, which is started from our cultivation and practice of precepts, concentration, and wisdom, has the ability to extinguish the fires of lust, anger, delusion, arrogance, doubt, wrong view, etc.    
Phun khác với mưa; động từ phun dùng để diễn tả sự tưới tẩm, thấm nhuần, và sự mát dịu thân tâm qua nhiều khía cạnh và gốc độ khác nhau, đặc biệt khía cạnh tu tập, giác ngộ, giải thoát, hoằng pháp, và độ sanh của đạo Phật, đức Phật, và đệ tử của đức Phật đối với vạn vật chúng sanh trên khắp hành tinh này; nước trong cụm từ phun nước là danh từ làm tân ngữ bổ nghĩa cho động từ phun; phun cái gì, phun nước; nước gồm có hydrô (hydrogen) và oxy (oxygen), viết tắt là H2O; ở trong ngữ cảnh này, nước không có nghĩa là nước mưa, nước sông, nước suối, mà là nước từ bi.
Spray is different than raining. The verb spray is used to describe sprinkling, permeation, coolness, and softness of body and mind through many various aspects and angles, especially the aspects of cultivation, enlightenment, deliverance, propagation and help of human beings of Buddhism, the Buddha, and His disciples toward living things and living beings all over this planet. Water in a phrase of spraying water is a noun making object modify the verb spray; spraying what, spraying water; water consists of hydrogen and oxygen, it is abbreviated as H2O. In this context, water does not mean rain water, river water, spring water, it means the compassionate water
Song hành với trí tuệ, nước từ bi chứa đầy các chất liệu thương yêu và hiểu biết, an lạc và hòa bình có khả năng dập tắt các ngọn lửa tham, sân, và si do con người tạo tác. Thế giới ngày nay đang thiêu đốt, bốc cháy, chiến tranh, thiên tai, lũ lụt… là do tâm tham, sân, si, tà kiến… của con người tạo ra; nước từ bi xuất phát từ thân tâm tu tập, an lạc, và mát mẻ qua việc ứng dụng và hành trì Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày. Thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc, xã hội thanh bình, gia đình an vui và hạnh phúc cũng đều bắt đầu từ thân làm thiện, ý nghĩ thiện, và lời nói thiện; nếu chúng ta hiểu và thực tập được như vậy, thì nước từ bi có khả năng tưới tẩm, thấm nhuần, và làm mát dịu thân tâm.
Going together with wisdom, the compassionate water, which is full of the substances of love and understanding, peace and peacefulness, has the ability to extinguish fires of lust, anger, and delusion created by human beings. Today’s world that has gotten burnt, ignited, warred, calamitous, flooded, etc., is created by one’s human minds of lust, anger, delusion, wrong view, etc. The compassionate water is derived from one’s body and mind of cultivation, peacefulness, and fresh coolness through applying and practicing the Buddhadharma in one’s daily life. The world of peace, human beings of peacefulness, society of tranquility, family of joy and happiness, is also originated from bodily good actions, mentally good thinkings, and verbally good speeches. If we understand and practice like this, the compassionate water has the ability to irrigate, to penetrate, and to make our bodies and minds fresh and cool.   
Như vậy, chúng ta thấy 1/ Tư tưởng nuôi dưỡng từ bi và giáo dục hòa bình trong đạo Phật bắt nguồn từ khi thái tử Tất Đạt Đa còn nằm trong thai mẹ,[85] 2/ Từ xưa cho tới nay, đạo Phật là đạo hòa bình dành cho những ai tu tập, hành trì, và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày của mình để đem lại an lạc và hạnh phúc cho số đông ngay trong cuộc sống hiện tại.
Thus, we see that 1/ The thought of nurturing loving-kindness, compassion and peace education in Buddhism were originated from when prince Siddhārtha was still in his mother’s fetus,[86] 2/ From past to present, Buddhism has been the path of peace intended for those who cultivate, practice, and apply the Buddhadharma in their daily lives to bring peacefulness and happiness to the many right in the present life.   
Khi đức Phật hài nhi đản sinh, không những phạm thiên, chư thiên, loài người, mà còn các loài động vật, thực vật, và môi trường thiên nhiên, đều hân hoan chào đón sự ra đời kỳ diệu của Ngài như trăm hoa đua nở, chim vui mừng hót, đặc biệt các loài chúng sinh không bị sát hại. Mặc khác, nhìn vào khía cạnh giáng sinh của nhà sáng lập tôn giáo khác, và ngay trong đời sống hàng ngày và hàng năm, mỗi khi tới ngày giáng sinh hay sinh nhật của tôn giáo đó, chúng ta biết có không ít chúng sinh bị sát hại và làm thịt.   
When the baby Buddha was born, not only Brahma gods, gods, human beings, but also animals, plants, and natural environment, are welcome to his marvelous birth as a hundreds flowers blossom, birds are singing joyfully, especially all kinds of living beings are not killed. On the other hand, looking at aspects of the birth of an another religious founder, and right in daily and annual life, each time the birthday of that religion comes, we have known there are not less living beings killed and slaughtered.




Đối với Phật giáo, nhìn toàn cảnh đức Phật đản sinh, kể từ khi đức Phật ra đời, trụ thế trên cõi Ta Bà này suốt 80 năm, ngay cả sau khi đức Phật nhập diệt cho tới ngày hôm nay, hễ tới mùa Phật đản và những mùa lễ hội khác, đức Phật và các hàng đệ tử của Phật không bao giờ giết và khuyên bảo người khác giết hại sinh vật để cúng tế, để làm thịt, và để tế thần.
Toward Buddhism, looking at an overview of his birthday, since the baby Buddha who was born lived in this Saha world throughout 80 years, even after the Buddha’s death until today, whenever a season of his birthday and other festive seasons of Buddhism come, the Buddha and his disciples has never killed and encouraged other people to kill living beings in order to sacrifice, to slaughter, and to offer sacrifices to gods.       
Trong các mùa lễ hội của đạo Phật, các vị đệ tử của đức Phật không sát hại chúng sinh; ngược lại, các vị phát khởi thiện tâm bằng cách ăn chay, niệm Phật, ngồi thiền, phóng sinh, bố thí, và giúp người nghèo khổ. Những việc làm này của các vị mang đậm chất liệu từ bi và trí tuệ theo đúng tinh thần tự tu, tự độ, tự ngộ, và tự giải thoát.
In the festive seasons of Buddhism, the Buddha’s disciples do not kill animals; in contrast, they arouse their wholesome hearts by eating vegetarian food, reciting the names of the Buddhas and Bodhisattas, sitting meditation, releasing animals, giving alms, and helping needy and poor people. These works of theirs bear deep substance of loving-kindness, compassion, and wisdom according to the right spirit of self-cultivation, self-help, self-attainment, and self-deliverance.
Chúng ta hiểu và thực tập được Phật pháp như vậy, thì phúc đức và tuổi thọ của chúng ta càng ngày càng tăng trưởng. Các loài chúng sinh đều được an vui bởi vì chúng ta khéo biết ứng dụng và hành trì giáo lý từ bi và trí tuệ của đạo Phật và trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.
We understand and practice the Buddhadharma like this, our virtuous blessings and longevity develop more and more. Kinds of living things and living beings get peaceful because we skillfully know to apply and to practice the teachings of loving-kindness, compassion, and wisdom of Buddhism in our every day lives.
Qua những gì thảo luận ở trên, hòa bình trong đạo Phật được bắt nguồn từ trong trứng nước, tức thai nhi (giáo dục thai nhi),[87] đặc biệt là trong các ý nghĩ, lời nói, và việc làm thiện của chúng ta trong đời sống hàng ngày. Là người tiếp nối và kế thừa ánh sáng của chánh pháp, chúng ta có trách nhiệm phát huy và nuôi dưỡng tinh thần giáo dục hòa bình và bất bạo động để đem lại an lạc và hạnh phúc cho nhiều người.
Through the above discussed things, peace in Buddhism is originated from the egg, namely the fetus (education of the fetus),[88] especially in our good thinkings, speeches, and actions in our daily lives. As people connecting and inheriting the light of the Dharma, we are responsible for promoting and nourishing the spirit of education of peace and non-violence to bring peacefulness and happiness to many people.
Học và hiểu rõ Phật pháp, chúng biết đức Phật là vị Vua hòa bình, vị Sứ giả hòa bình, vị đạo Sư tâm linh của hòa bình, và là vị hành Giả đích thực của hòa bình. Do vậy, đạo Phật được mệnh danh là đạo tỉnh thức, đạo hòa bình, đạo của tình thương và trí tuệ; các bước chân đi của đức Phật và các vị đệ tử của Ngài là các bước chân hòa bình, tỉnh thức, an lạc, và hạnh phúc cho số đông trên khắp hành tinh này.
Learning and understanding the Buddhadharma clearly, we know that the Buddha is the King of peace, the Messenger of peace, the spiritual Teacher of peace, and is the authentic Practitioner of peace. Therefore, Buddhism is called as the path of awakening, the path of peace, and the path of love and wisdom. The footsteps of the Buddha and his disciples are the footsteps of peace, awakening, peacefulness, and happiness for the many all over this planet.    
Nhìn suốt cuộc đời của Ngài, chúng ta thấy rằng đức Phật sinh ra dưới gốc cây Vô Ưu ở vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạo dưới gốc cây Bồ đề ở Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya), nói bài pháp đầu tiên về Tứ Diệu đế cho năm anh em của ông Kiều Trần Như (Anna Kondanna) ở vườn Lộc Uyển (Deer park, Sarnarth), và nhập diệt dưới 2 cây Ta la (Sala) ở Câu Thi La (Kushinagar). Tất cả những nơi đó đều là môi trường thiên nhiên, môi trường hòa bình, môi trường tu tập và hành đạo được đức Phật và các đệ tử của Ngài bảo vệ và chăm sóc chu đáo. Kinh Pháp Cú, kệ số 98 ghi:
Looking at his lifetime, we find that the baby Buddha, who was born under a Sorrowless Tree (Ashoka) in Lumbini garden, obtained enlightenment under the Bodhi tree at Bodhgaya, preached the first Sermon of four Noble Truths to the five Brothers of the Elder Anna Kondanna in the Deer Park, Sarnath, and passed away under the two Sala trees in Kushinagar. All those places are environment of nature, that of peace, that of cultivating and practicing the Dharma taken care of and protected by the Buddha and His disciples thoughtfully. Dhammapada, Verse 98 stated:  
Hoặc trong làng mạc hoặc trong núi rừng,
Hoặc trong thung lũng hoặc trên đồi cao,
Bất cứ nơi nào A La Hán trú,
Nơi đó vô vàn vui sướng biết bao.[89]
Whether in a village or in a mountain forest,
Or in a valley or on a high hill,
Wherever Arhat resides,
What countless delight there is![90]
Thật vậy, dựa vào các môi trường thiên nhiên, đức Phật và các đệ tử của Ngài tu tập và giáo hóa chúng sanh để đem lại hòa bình, an lạc, và hạnh phúc đích thực cho số đông. Trong 45 năm hoằng dương chánh Pháp, Ngài hóa độ rất nhiều hạng người giàu, nghèo, giặc cướp, kỉ nữ, vua quan, quần thần khác nhau… Những người nào có đủ duyên học pháp, hiểu pháp, hành pháp, hoằng pháp, hộ pháp, và nếm được pháp lạc thì họ đều trở thành những người an lạc, hạnh phúc, hiền, và thiện ra. 
Indeed, relying on the natural environment, the Buddha and his disciples cultivate and teach human beings to bring peace, peacefulness, and happiness authentically to the many. In the forty five years of spreading the Dharma, he taught so many different kinds of the rich, the poor, robbers, courtesans, kings, mandarins, etc. Those who have a sufficiently good chance to learn the Dharma, to understand it, practice it, protect it, and enjoy it will become more peaceful, happier, gentler, and better people.  
Quý vị biết trong cuộc sống thường ngày, đức Phật không những đề cao và tôn trọng sự sống của con người, mà còn đời sống của con vật, con sâu, con kiến, cỏ, cây, rừng, núi, đất đá, thậm chí con vi trùng ở trong bát nước…
As you know in His daily life, the Buddha not only promotes and respects human life, but also lives of animals, worms, ants, grass, trees, forests, mountains, soils, rocks, even germs in a water bowl, etc.
Với tinh thần thực tập từ bi, trí tuệ, chánh niệm, và tỉnh giác trong từng cử chỉ nói năng, suy nghĩ, và hành động của Ngài, khi uống nước, khi đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, thức…, Ngài và các đệ tử của Ngài luôn giữ thân tâm chánh niệm và tỉnh giác cho tự thân và cho tha nhân. Do vậy, các việc làm tỉnh thức và chánh niệm của quý Ngài đều có khả năng nuôi dưỡng tinh thần hòa bình, tình thương yêu, tình huynh đệ, tình tương thân, tương ái, tương kính… cho nhiều người.
With the spirit of practicing loving-kindness, compassion, wisdom, mindfulness, and awareness in every gesture of His verbal actions, mental actions, and bodily actions, when drinking water, when walking, standing, sitting, sleeping, getting up, etc., He and His disciples always keeps their minds and bodies mindful and awakening for themselves and for other people. Therefore, their awakening and mindful actions have the ability to nurture the spirit of peace, compassion, brother/sisterhood, mutual affection, mutual love, mutual respect, etc., for many people.     
Như vậy, trên đây, hòa bình được đề cập trong ẩn dụ, nhấn mạnh, trong đời sống tu tập, trong giáo pháp, và trong việc hoằng pháp của đức Phật và các đệ tử của Ngài; tiếp đến, hòa bình được trình bày trong lời dạy của Ngài, cụ thể là “Cái thấy hòa bình, suy nghĩ hòa bình, lời nói hòa bình, hành động hòa bình, việc kiếm sống hòa bình, nỗ lực hòa bình, nhớ nghĩ hòa bình, và tập trung hòa bình.” Đây là những lời Phật dạy nhấn mạnh về hòa bình, an vui, và hạnh phúc cho số đông trên khắp hành tinh này. Những ai thực tập và an trú thấm nhuần những lời dạy hòa bình này một cách đều đặn, chánh niệm, và tỉnh giác thì họ là những hành giả đích thực có khả năng đem đạo Phật đi về tương lai một cách vững chãi và tươi sáng.
Thus, above, the peace is mentioned in metaphor, emphasis, in lives of cultivation, in the Dharma, and in the Dharma propagation of the Buddha and His disciples; next, the peace is presented in His teachings, namely “Understanding of peace, thought of peace, speech of peace, action of peace, livelihood of peace, effort of peace, mindfulness of peace, and concentration of peace.” These are the Buddha’s teachings emphasized on peace, peacefulness, and happiness for the many all over this planet. Those who practice and dwell penetratively in the teachings of the peace regularly, mindfully, and attentively are authentic practitioner with the ability to bring Buddhism to the future steadily and brightly.     
Hòa bình trong giáo pháp của Ngài rất thiết thực hiện tại, vượt thoát thời gian, các bạn đến để thấy, đến để nghe, đến để hiểu biết, đến để thực hành Phật pháp trong từng hơi thở, ý nghĩ, và việc làm ý thức và chánh niệm của mình, và đến để góp phần đem lại an lạc và hạnh phúc cho tự thân và cho tha nhân ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại. Với những ý nghĩa thiết thực được trình bày ở trên, chúng ta có thể khẳng định và tự hào rằng ngày nay đạo Phật được thế giới tôn vinh là tôn giáo hòa bình, con đường hòa bình vạch ra nhiều hướng đi an lạc và trong sáng cho thời đại.
Peace in His Dharma is very practical in the present, beyond time, you come and see, come and hear, come and understand, come and practice the Buddhadharma in your mindful and conscious breath, thought, and action, and come and contribute to bringing peacefulness and happiness to oneself and other people right here and right now in the present life. With the above-presented practical meanings, we can affirm and pride that Buddhism today has been honored as a religion of peace, the path of peace outlined many directions leading to peace and brightness for the modern age.  
Tóm lại, qua những gì thảo luận ở trên, từ cái nhìn thứ nhứt đến cái nhìn thứ chín, tác giả viết và chia ra như vậy là để người đọc, người học dễ hiểu, dễ nắm bắt các ý nghĩa thiết thực của chúng, dễ áp dụng, và dễ thực hành Phật pháp vào trong đời sống tu tập hằng ngày của mình.
In brief, through the above discussed things, from the first vision to the ninth vision, the author writes and divides them like this for readers and learners to easily understand, to easily grasp their practical meanings, to easily apply, and to easily practice the Buddhadharma in their daily cultivation lives.
Chín cái nhìn cơ bản này được đề cập ở trên đều có các mối tương quan và tương duyên với nhau rất mật thiết qua nhiều phương diện, khía cạnh, và gốc độ khác nhau để hình thành đức Phật lịch sử, đạo Phật bình đẳng, giáo pháp bình đẳng, tôn giáo bình đẳng; đạo Phật hòa bình, giáo pháp hòa bình, tôn giáo hòa bình, con đường hòa bình, hành giả hòa bình… Chín cái nhìn này đều có khả năng giúp chúng ta có cái nhìn chân chánh, cái thấy chân chánh, cái biết chân chánh, tư duy chân chánh, lời nói chân chánh… về đạo Phật, đức Phật, các đệ tử của đức Phật, pháp Phật, pháp học, pháp tu, pháp hành, pháp lạc, và pháp chứng.
These nine basic visions that above discussed have the interrelated and interdependent things very closely through many different respects, aspects, and angles to form the historical Buddha, Buddhism of equality, the Dharma of equality, religion of equality; Buddhism of peace, the Dharma of peace, religion of peace, the path of peace, practitioner of peace, etc. These nine visions have the ability to help us have right look, right view, right understanding, right thought, right speech, etc., about Buddhism, the Buddha, His disciples, Buddhadharma, Dharma learning, Dharma cultivation, Dharma practice, Dharma joy, and Dharma attainment.        
Hiểu và thực hành được như vậy, thì chúng ta dũng mãnh phát nguyện học pháp, hiểu pháp, hành pháp, nếm pháp, hoằng pháp, và hộ pháp một cách vững chãi và thảnh thơi, an vui và hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại. Từ đây, chúng ta là những món quà tu tập, hòa bình, an vui và hạnh phúc đích thực cho tự thân và cho tha nhân ngay tại thế gian này.
Kính chúc quý vị an trú vững chãi và thấm nhuần giáo pháp của đức Thế Tôn!
By Thích Trừng Sỹ
 
Understanding and practicing like this, we strongly develop our vows to learn the Dharma, to grasp the Dharma, to practice the Dharma, to enjoy the Dharma, to spread the Dharma, and to protect the Dharma steadily and relaxedly, peacefully and happily right here and right now in the present life. Coming to this stage, we are gifts of authentic cultivation, peace, peacefulness, and happiness for ourselves and other people right in this world.
May you instill and dwell stably in the Dharma of the World-Honored One!
By Thích Trừng Sỹ




    Xem Trường Bộ - Kinh Đại Bổn 14, Phẩm III – 22 - 23 (Dìgha Nikàya - Mahàpadàna sutta 14, Part 22 - 23).
[5]  Pháp Cú, kệ 49.
[6]  Dhammapada, Verse 49.
    Xem Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – 14 Kinh Đại Bổn (Mahàpadàna Sutta), Phẩm I – 18, 19, 20…
    Xem D. 14. I.
    See Collection of Long Discourses (Dìgha Nikàya) – 14 The Great Discourse on the Lineage (Mahàpadàna Sutta), Part I – 18, 19, 20…   
[13]  Như trên.
[14]  As above.
[18]  Xem http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-76_4-3897_5-50_6-1_17-50_14-1_15-1/   Xem Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammcakkappavattana Sutta).
[20]  See http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-76_4-3897_5-50_6-1_17-50_14-1_15-1/  See the Sutta of Setting the Dhamma Wheel in motion (Dhammcakkappavattana Sutta).
     Xem Kinh Trường A Hàm, Phần I – 1. Kinh Đại Bản Duyên 4c  
     Xem Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – 14 Kinh Đại Bổn (Mahàpadàna Sutta), Phẩm I – 17, 18, 19…
     Xem Dìgha Nikàya - Mahàpadàna sutta / Trường Bộ - Đại Bổn Kinh số 14.
     Xem Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – 14 Kinh Đại Bổn (Mahàpadàna Sutta), Phẩm I - 29   
[30]  See  (Dìgha Nikàya) – 14 Kinh Đại Bổn (Mahàpadàna Sutta), Phẩm I – 29
[31]  Xem http://www.quangduc.com/DucPhat/82sutichducphat01.html#_ftnref7
[37]  Tương Ương Bộ (Samyutta Nikaya, V – 420), Kinh Chuyển Pháp Luân[1] (Dhammacakkappavattana Sutta) – Bài Pháp đầu tiên
     mà đức Phật thuyết giảng cho 5 anh em Trưởng lão A Nhã Kiều Trần Như (Aññakoṇḍañña) tại Vườn Lộc Uyển – Sarnath, Ấn Độ.
[39]   Xem http://quangduc.com/kinhdien/223truongaham01.html   / hoặc xem Trường A Hàm – Sơ Đại Bản Duyên Kinh
[40]  See the Collection of long Suttas (Digha Nikàya), No 14 Mahāpadāna sutta
     http://quangduc.com/kinhdien/223truongaham01.html   / or see Trường A Hàm (S. Dīrghāgama) – Sơ Đại Bản Duyên Kinh
     Xem Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – 14 Kinh Đại Bổn (Mahàpadàna Sutta), Phẩm I - 27
     Xem D. 14, I. 27. 
[44]  See D. 14, I. 27.
[45]   Xem Pháp Môn Tịnh Hạnh - Phẩm Thuỵ Ứng của Kinh Ưu Bà Di
[46]  See Pháp Môn Tịnh Hạnh - Phẩm Thuỵ Ứng của Kinh Ưu Bà Di
[49]   Xem http://www.quangduc.com/DucPhat/82sutichducphat01.html#_ftn8       Hoặc xem Trường A Hàm – Sơ Đại Bản Duyên Kinh
[50]  See See D. 14, I. 27.
[52]   See Thích Nhất Hạnh. Chanting from the hear, Buddhist Ceremonies and Daily Practices. Parallax Press, Berkeley, California: 2007, P. 180. 
[53]   Như trên.
     Xem Kinh Trường A Hàm, Phần I – 1. Kinh Đại Bản Duyên 4c  
     Xem Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – 14 Kinh Đại Bổn (Mahàpadàna Sutta), Phẩm I - 29
     Xem D. 14 I. 29
[56]  See D. 14 I. 29
[62]  Xem Anguttara Nikaya III. 71     http://www.buddhanet.net/budsas/ebud/budtch/budteach06.htm#_ednref17     → Anattalakkhana Sutta – Kinh Vô Ngã tướng. Or xem Mahāvagga, p. 13; Samyutta Nikāya pt. iii, p. 66. 
     Or see Mahāvagga, p. 13; Samyutta Nikāya pt. iii, p. 66            
[64]  Xem Kinh Trường A Hàm, Phần I – 1. Kinh Đại Bản Duyên 4c  
     Xem Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – 14 Kinh Đại Bổn (Mahàpadàna Sutta), Phẩm I - 29
     Xem D. 14 I. 29.
[65]  See D. 14 I. 29.
     Xem Trường Bộ - Kinh Đại Bổn 14, Phẩm III – 22, 23, 24… (Dìgha Nikàya - Mahàpadàna sutta 14, Part 22, 23, 24, etc.).
     Xem Trung Bộ - Kinh Thánh Cầu 26 (Majhima NikàyaAriyapariyesanà Sutta 26)
[67]  See Majhima NikàyaAriyapariyesanà Sutta 26.
[68]  Xem http://www.quangduc.com/kinhdien/240phaphoahn3.html#PH%E1%BA%A8M%20TH%E1%BB%A8%20N%C4%82M
[69]  See http://reluctant-messenger.com/lotus_sutra_05.htm
[70]  Xem Textual Sources for the Studies of Hinduism, Wendy Doniger O’Flaherty dịch, Manchester: Manchester University Press, 1988, tr. 28. Trong Rg-Veda, hệ thống đẳng cấp bốn bậc này chỉ được đề cập một lần duy nhất; và đoạn kinh văn này được cho là được bổ sung về sau. Xem http://www.hoavouu.com/D_1-2_2-86_4-17687_15-2/
[71]  See Textual Sources for the Studies of Hinduism, Wendy Doniger O’Flaherty dịch, Manchester: Manchester University Press, 1988, tr. 28.
[72]  Xem S. Radhakrishnan. Indian Philosophy., Vol. I, Oxford University Press, 2008, trang 111 – 3.
[73]  See  S. Radhakrishnan. Indian Philosophy., Vol. I, Oxford University Press, 2008, pp. 111 – 3.
http://www.buddhanet.net/e-learning/history/db_06s.htm
[75]  Xem http://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/thien-tap/duong-xua-may-trang/chuong-43-mau-ai-cung-do-nuoc-mat-ai-cung-man?set_language=vi                                      http://chandawimala.blogspot.com/2010/09/buddhist-pantings-life-of-buddha.html
[77]  See http://www.buddhanet.net/e-learning/history/db_06s.htm
[78]  See http://chandawimala.blogspot.com/2010/09/buddhist-pantings-life-of-buddha.html
[83]   Xem Tăng Nhất A Hàm – Tám Pháp → 42. Phẩm Tám Nạn → Kinh Số 5 
[85]   Xem http://www.daophatngaynay.com/vn/van-hoa/xuan/3976-Nhin-Xuan-Qua-Con-Mat-Thien-Quan.html
[86]    See http://www.buddhismtoday.com/english/culture/lookingthespring.htm
[87]  Xem phần số hai được trình bày ở trên
[88]  See the above presented part of number 2
[90] See http://phapnhandharmawheel.blogspot.com/p/buddha-embodiment-of-peace.html